A DỤC VƯƠNG, MỘT CƯ SĨ PHẬT TỬ

HỘ TR̀ CHÍNH PHÁP VĨ ĐẠI 

 

H.T. Thích Trí Chơn

 

 

ASOKA hay A DỤC VƯƠNG (273-233 trước Tây Lịch) là một vị vua, nhân vật lịch sử vĩ đại không những đối với lịch sử Ấn Độ mà cả lịch sử thế giới. Ngài c̣n là một cư sĩ Phật tử “Hộ Pháp” có công đức nhiều với nhân loại trong việc phát huy, bảo vệ chánh pháp của đức Phật.

A Dục Đại Đế là cháu nội vua Chandragupta (trị v́: 322-298 trước T.L), người sáng lập nên triều đại Maurya (322-184 trước T.L) ở Ấn Độ. A Dục là con vua Bindusara và hoàng hậu Subhadrangi, trị v́ vương quốc Magadha (Ma Kiệt Đà) vào những năm 298-273 trước T.L), với kinh đô đóng tại Pataliputra (Hoa Thị Thành), nay là thủ phủ Patna, thuộc tiểu bang Bihar, miền đông Ấn Độ. Sử chép rằng Vua Bindusara lấy đến 16 vợ và có 101 người con, trong đó Sumana là con đầu, Asoka (A Dục) thứ hai và Tishya là con út. Vua A Dục lên ngôi lúc ngài 30 tuổi và mất vào năm 71 tuổi (273-233 trước T.L). Nhà vua có năm vợ và sáu con: bốn trai, hai gái.

Sử chép rằng sau khi nghe tin vua cha băng hà, A Dục bấy giờ đang cai trị tiểu quốc Avanti (miền bắc Ấn Độ), cấp tốc kéo quân về vây hảm kinh đô Pataliputra, giết hết 99 người anh của ḿnh, trong đó có thái tử Sumana là người mà vua cha Bindusara định truyền ngôi cho. Từ đó, A Dục Vương nổi danh như một hung thần bạo chúa, cai trị muôn dân bằng sắt máu. Ông dùng vũ lực xua quân đi xâm lăng các tiểu quốc lân bang để mở mang bờ cơi. Quân nhà vua đi tới đâu, cảnh lương dân bị chém giết, đẩy ải, nhà cửa bị đốt phá xảy ra đến đó. Khắp nơi dân t́nh khốn khổ v́ nạn nghèo đói, bệnh tật, tù đầy, gây nên bởi những cuộc viễn chinh tàn bạo của A DụcVương. Do đó, nhà vua được người đời bấy giờ tặng cho cái tên Candasoka (A Dục Vương hung ác).

Rồi một hôm, đang ngồi một ḿnh trên lầu trong cung điện, vua A Dục chợt nh́n qua khung cửa sổ, bắt gặp h́nh dáng một chú tiểu Sa Di tên Nigrodha trong chiếc áo cà sa vàng, với dáng điệu khoan thai đang đi khất thực dưới đường. Nhà vua bèn cho mời chú tiểu vào để thăm hỏi và vấn đạo. Sa Di Nigrodha sau đó đă thuyết giảng cho A Dục Vương nghe một đoạn kinh Pháp cú (Dhammapada) như sau: “Không phóng dật đưa tới bất tử; Phóng dật đưa tới đường tử sanh. Người không phóng dật th́ không chết; Kẻ phóng dật th́ sống như thây ma”. Nghe xong nhà vua liền thức tỉnh, phát tâm hồi đầu theo Phật. Từ đó, A Dục Vương bắt đầu thay đổi cuộc sống và quan niệm nhân sinh của ḿnh. Nhà vua nghĩ đến sự chiến thắng, chinh phục nhân tâm bằng chánh pháp của đức Phật chứ không phải bằng những cuộc chiến tranh tàn bạo. Mặc dù vua A Dục đă theo Phật Giáo sau những ngày gặp Sa Di Nigrodha, nhà vua vẫn chưa diệt hẳn tham vọng bành trướng đất đai măi đến sau trận chiến Kalinga (nay thuộc tiểu bang Orissa, miền đông Ấn Độ), với 100.000 người chết, và 150.000 người bị đày ải, vua A Dục mới thực sự ăn năn sám hối tội ác, gây nên bao thống khổ điêu linh cho muôn dân và từ bỏ hẳn con đường chinh phục thiên hạ bằng chiến tranh.

Từ ngày đó, vua A Dục nhất tâm quy y, phụng tŕ Tam Bảo, ngày đêm sám hối những tội lỗi ḿnh đă gây ra và phát nguyện đem hết năng lực c̣n lại của đời ḿnh để phụng sự Phật Giáo và nhân loại. Về xă hội, nhằm gây hạnh phúc cho nhân dân, nhà vua ra lệnh sửa sang đường sá, cầu cống; dọc đường trồng cây có bóng mát, xây dựng quán nghỉ ngơi, giếng nước, trạm phát thuốc cho người bệnh, người già, kẻ lỡ đường v..v….Về y tế, nhà vua cho thiết lập khắp nơi trong nước nhiều bệnh viện, không những để chăm sóc, chữa bệnh cho con người, mà cả đến loài vật.

Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dung và tôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ, truyền bá chánh pháp của đức Phật, không những trong nước Ấn Độ và các quốc gia khác ở Á Châu, mà lan rộng cả đến Âu và Phi Châu. Vua A Dục muốn biến cải Phật Giáo bấy giờ thành tôn giáo chung của toàn thế giới.

Nhà vua đích thân đi chiêm bái các Thánh Tích Phật Giáo như vườn Lâm T́ Ni (Lumbini), nơi đức Phật đản sinh hơn 2.500 năm trước; Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), nơi đức Phật tọa thiền chứng đạo dưới cội Bồ Đề, vườn Lộc Uyển (Sarnath), nơi đức Phật thuyết bài pháp đầu tiên “Tứ Diệu Đế” v..v….và tới đâu ngài cũng ra lệnh cho dựng các trụ đá để ghi dấu tích và kỷ niệm. Chính nhờ những trụ đá này mà về sau các sử gia nghiên cứu mới biết rơ được những di tích lịch sử liên quan đến đời sống và hoạt động của đức Phật thời xưa ở Ấn Độ.

Nhà vua cho xây cất rất nhiều chùa tháp, tu viện Phật Giáo trong nước, và giúp đỡ chư Tăng trong nhiệm vụ đưa giáo lư an lạc của đức Phật vào cuộc đời. Vua A Dục cũng khuyến khích cho hai người con của ḿnh là hoàng tử Mahinda (Ma Hưng Đạt) và công chúa Sanghamitta xuất gia đi tu. Đại đức Mahinda, người có công lớn trong việc mang Phật Giáo từ Ấn Độ sang truyền bá tại Tích Lan vào năm 247 trước Tây Lịch. C̣n Ni Cô Sanghamitta, không lâu sau đó, theo lời khuyên của đại đức Mahinda, cũng vượt biển bằng thuyền qua Tích Lan để góp sức với anh ḿnh trong việc phát huy truyền bá Phật Pháp tại đây.

Cùng đi với Sanghamitta, c̣n có 11 Ni Cô khác nữa. Sử chép rằng trong chuyến đi lịch sử này, sư cô Sanghamitta có mang theo một nhánh Bồ Đề con chiết lấy từ cây Bồ Đề chính ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), nơi đức Phật Thành Đạo xưa kia, đem trồng ở Anuradhapura, cựu kinh đô của Tích Lan (Sri Lanka). Cây Bồ Đề hiện nay vẫn c̣n sống và theo học giả Phật tử người Anh, ông Christmas Humphreys, đây là cây Bồ Đề lịch sử cổ nhất thế giới.

Nhưng sự đóng góp vĩ đại nhất của vua A Dục cho nhân loại là những pháp lệnh ngài chỉ thị cho khắc trên đá hoặc trụ đá dựng lên khắp toàn xứ Ấn Độ bấy giờ mà qua đó, giáo lư đức Phật được truyền thừa và lưu lại muôn đời cho các hậu thế chúng ta. Chẳng hạn pháp lệnh thứ VI khắc trên trụ đá ở thị trấn Banaras -Ba La Nại (thuộc tiểu bang Uttar Pradesh, miền đông bắc Ấn Độ) vào niên đại A Dục thứ 26, nói về cai trị theo chánh pháp: “Điều ta muốn nói là ta luôn nghĩ đến quyền lợi và hạnh phúc của thế giới. Đối với cha mẹ, bà con quyến thuộc xa gần, ta muốn mang lại hạnh phúc cho họ”, và pháp lệnh thứ IV khắc trên núi đá vùng Girnar (thuộc tiểu bang Gujarat, miền tây Ấn Độ) ghi: “Nhờ sự thực hành chánh pháp của quốc vương, bạn của những thần linh, với cái nh́n bằng hữu, tiếng trống trận đă trở thành tiếng báo hiệu cho chánh pháp”, hoặc pháp lệnh thứ II khắc trên trụ đá ở thành Ba La Nại (Banaras) ghi: “…….Ta thành tâm sám hối về mọi lỗi lầm đă qua, và nhận thấy rằng chiến tranh xâm lăng lúc nào cũng gây nên chết chóc và tội ác. Dù số người đă bị giết, bị thương, bị bắt có trăm lần ít hơn số người bị tàn sát trong trận chiến Kalinga đi nữa, th́ cũng là điều khiến cho ta ân hận lắm. Dù các tiểu quốc có phạm lỗi lầm ǵ th́ bây giờ ta cũng phải nhẫn nhục đến cùng. V́ ta muốn tất cả mọi người đều có sự an lạc, yên tĩnh trong tâm hồn, và thương yêu với đồng loại”…

Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi rất tiếc không thể tŕnh bày hết những đóng góp lớn lao của vua A Dục cho con người trên nhiều lănh vực: chính trị, văn hóa, tôn giáo và xă hội v..v…..Dù nhà vua đă mất gần 2.238 năm về trước, nhưng gương sáng của ngài sử sách cổ kim vẫn c̣n truyền tụng và tên của A Dục Vương vẫn được ghi nhớ măi trong ḷng mọi thế hệ nhân loại và nhất là trong hàng Phật tử hậu sinh chúng ta. Chính không phải do những chiến thắng bằng vũ lực tàn bạo của A Dục đại đế mà là nhờ bởi những việc làm phước thiện của nhà vua đă thực hiện cho muôn dân xă hội Ấn Độ bấy giờ, sau khi ngài biết ăn năn sám hối tội lỗi của ḿnh đă gây ra và quay đầu về với chánh pháp của đức Phật.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Asoka, The Buddhist Emperor of India, by Vincent A. Smith, Low Price Publications, Delhi ( India), 1930.

2. 2500 Years of Buddhism, Editor: Prof. P.V. Bapat, Publications Division, Government of India, Delhi, 1964.

3. Encyclopaedia of Buddhism, Vol. II, Edited by Dr. G.P. Malalasekera, Government of Ceylon ( Sri Lanka), Colombo, 1967.

4. Royal Patronage of Buddhism in Ancient India, by Kanai Lal Hazra, D.K.Publications, New Delhi ( India), 1984.

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 07/21/09