NGHĨA LƯ TỤNG NIỆM

HT. Thích Thắng Hoan

Kỳ 1

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trị và nghĩa lư của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này là thuộc về hạ cấp, tầm thường, chỉ dành riêng cho hạng b́nh dân mê tín tu tập. Nhưng họ không ngờ rằng việc tụng niệm cũng là một trong những pháp môn không kém trong việc tu tập đạt đạo mà chính đức Phật đă khuyến khích các đệ tử thực tập đă được ghi lại trong các kinh Đại Thừa, như Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh A Di Đà, v.v...

Thông thường ở ngoài đời, con người muốn trở thành bác sĩ, kỷ sư th́ phải chuyên cần học tập, nằm ḷng những sách vở, những công thức chuyên nghiệp ngành nghề. C̣n ở trong đạo, người Phật tử muốn giác ngộ thành Phật th́ cũng phải học tập, phải nằm ḷng những kinh Phật mà ḿnh thọ tŕ. Tụng niệm cũng là cách học tập, nghĩa là học hỏi và thực tập để có kinh nghiệm, có sáng tạo. Tụng niệm ở đây vừa là học tập kinh Phật trong sự nhất tâm và vừa là thực tập (tu tập) pháp môn cho được thâm nhập (nằm ḷng) kinh tạng để sáng tạo trí tuệ phát triển rộng lớn như biển cả. Một bác sĩ, một kỷ sư học tập mà không nằm ḷng, không kinh nghiệm th́ không thông suốt và không có khả năng sáng tạo, ngành nghề không được phát minh cập nhật theo nhu cầu tiến bộ của thời đại. Người tu tập, tụng niệm kinh Phật không được nhất tâm, không được nằm ḷng, không thâm nhập kinh tạng th́ đạo lực không được phát triển, trí tuệ không được mở bày và con đường đạt đạo thành Phật c̣n quá xa xôi.

Vấn đề tụng niệm đừng có thành kiến bảo rằng chỉ có tông phái Tịnh Độ chủ trương mà các tông phái khác không có hành tŕ, như Tịnh Độ Tông th́ có nghi thức tụng niệm theo tông phái Tịnh Độ, Thiền Tông th́ có nghi thức tụng niệm theo tông phái Thiền, Mật Tông th́ có nghi thức tụng niệm theo tông phái Mật, v.v... Chỉ có khác nhau là mỗi tông phái hành tŕ nghi thức tụng niệm riêng theo phương cách của ḿnh chọn lựa.

Chúng ta nên biết rằng, trên hành tŕnh đi đến Bảo Sở (Thành Phật), có người khởi điểm khác nhau, như một số người khởi hành từ hướng đông, một số người khởi hành từ hướng nam, một số người khởi hành từ hướng tây, một số ngời khởi hành từ hướng bắc, v.v..., mặc dù khác nhau điểm khởi, nhưng chung qui tất cả đều gặp nhau ở điểm hẹn. Đây th́ cũng vậy, mục đích cuối cùng là nhất tâm bất loạn để được thành Phật, nhưng mỗi tông phái có cánh hành tŕ không giống nhau, có phái chuyên ngồi thiền, có phái chuyên tụng niệm, v.v... chung quy tất cả đều gặp nhau ở điểm hẹn giác ngộ đạt đạo mà không có phái nào đúng phái nào sai trái cả.

 Để làm sáng tỏ giá trị của sự tụng niệm, tôi viết bày NGHĨA LƯ TỤNG NIỆM không ngoài mục đích cống hiến quư Phật tử chưa thông suốt ư nghĩa của sự tụng niệm, khỏi bị phân tâm, khỏi xao xuyến đức tin trong việc tu tập pháp môn này. Những điều được tŕnh bày trong tác phẩm này chỉ là những điểm nhỏ giá trị của sự tụng niệm, c̣n những giá trị thâm sâu khác của sự tụng niệm ở đây không thể tŕnh bày lên giấy trắng mực đen mà những giá trị này chỉ dành cho những người tu tập mới đích thân cảm nhận được đấy thôi. Những ǵ tôi tŕnh bày trong tác phẩm này, nếu quư đọc giả bốn phương nhận thấy có điều chi thiếu sót, xin bổ túc thêm để tác phẩm có giá trị hơn, thành thật cảm ơn quư đọc giả.

 

Cẩn bút

THÍCH THẮNG HOAN

 

—-oOo—-

 

NGHĨA LƯ TỤNG NIỆM

 

I.- ĐỊNH NGHĨA:

 

Chữ Nghĩa, chữ Lư, chữ Tánh, chữ Đạo trong các kinh điển Phật Giáo.   

1)- NGHĨA: là ư nghĩa của những chữ, những câu văn  được ghi lại trong các kinh sách. Nhờ ư nghĩa của những chữ, của những câu văn mà đọc giả nhận được tư tưởng và mục đích của tác giả đă gởi gắm trong các kinh sách.

 

2)- LƯ : là triết lư là tư tưởng là mục đích của tác giả được gởi gấm vào  ư nghĩa của những chữ, của những câu văn trong các kinh sách. Tư tưởng của tác giả có súc tích, mục đích có cao siêu hay không là khi nào lời văn trong kinh sách có khúc chiết và ư nghĩa có thể hiện trọn vẹn hay không.

 

3)- TÁNH: là bản tánh của chân lư, nghĩa là chỉ cho nguồn gốc phát sanh ra chân lư mà tác giả muốn đọc giả hội nhập cảm thông một cách trọn vẹn và chân thành. Lư và Tánh thường đi đôi với nhau và không thể tách rời nhau để hội nhập cảm thông, cho nên trong Phật Giáo thường ghép hai chữ này lại thành một danh từ chung là LƯ TÁNH để cho hành giả dễ dàng thực tập tu chứng.

 

4)- ĐẠO: gọi cho đủ là Đạo Lực, nghĩa là đường đi của tâm lực. Chữ Đạo đây không phải chỉ cho một tôn giáo mà thế gian thường dùng. Theo Đạo Phật, Tâm lực tự nó có đường đi riêng của nó, cũng như Nghiệp Lực tự nó có đường đi riêng của nó. Thí dụ: Nghiệp lực ghiền rượu th́ dẫn dắt con người đi trên đường đến quán rượu mà nó không dẫn dắt con người đi trên đường đến chỗ cờ bạc và ngược lại nghiệp ghiền cờ bạc th́ dẫn dắt con người đi trên đường đến chỗ cờ bạc mà không dẫn dắt con người đi trên đường đến quán rượu. Nghiệp ái dục thường dẫn dắt con người đi trên đường đến chỗ thanh lâu chơi bời mà nó không dẫn dắt con người đi trên đường đến những chỗ khác của nghiệp ái dục,..v..v?..

 

Tâm tự nó có năng lực của tâm gọi chung là tâm lực, cũng như men rượu tự nó có năng lực của rượu gọi chung là ma men, bài bạc tự nó có năng lực của bài bạc gọi chung là nghiệp cờ bạc, ái dục tự nó có năng lực của ái dục gọi chung là nghiệp ái dục.

Những tác phẩm của thế gian thường mượn chữ nghĩa văn chương diễn tả trên hai lănh vực là Nghĩa (ư nghĩa) và Lư (triết lư) mà không có Tánh. Riêng Phật Giáo, những kinh điển đều diễn tả bao gồm ba lănh vực Nghĩa, Lư và Tánh.

C̣n về phương diện ư nghĩa ĐẠO, những kinh điển của Phật Giáo, ngoài ba lănh vực Nghĩa, Lư và Tánh  đă tŕnh trên c̣n xây dựng trên Trí Đạo, thường gọi là Phật Đạo, nhưng Trí Đạo ở đây được đặt trên nền tảng Tâm Đạo để khai triển mà không phải đặt trên nền tảng Nghiệp Đạo để chỉ đạo. Nho Giáo thường gọi là Văn dĩ tải đạo, nghĩa là văn chương chuyên chở đạo lư.

Đạo lực của Tâm (Trí Đạo hay Phật Đạo), bên Mật Giáo gọi là Thần Lực, nghĩa là Đạo Lực được ấn kư vào trong các kinh điển và mật chú của Phật Giáo xuyên suốt cả ba lănh vực Nghĩa, Lư và Tánh trong kinh văn, thường gọi là Tâm Ấn Sắc (nghĩa là tâm ấn vào vật chất của kinh văn). Đạo lực của tâm mượn vật chất của kinh văn để ấn vào tâm của chúng sanh nên gọi là Sắc Ấn Tâm (nghĩa là đạo lực trong sắc chất kinh văn lại ấn vào tâm của chúng sanh). Đạo lư của Tâm Ấn Sắc và Sắc Ấn Tâm, Duy Thức gọi là Dĩ tâm duyên tâm chơn đới chất, nghĩa là đem tâm lực này duyên với với tâm lực kia qua sự chuyên chở của sắc chất kinh văn. Đạo lực của tâm nằm ẩn sâu bên trong của kinh văn,  nó không phải là kinh văn và ngoài kinh văn không t́m ra nó. Đức Phật dạy rằng: Y Kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết, nghĩa là y cứ nơi nghĩa lư của kinh văn mà diễn giải tức là nói oan cho Phật ba đời, c̣n nếu như ĺa khỏi kinh một chữ mà diễn giải tức là đồng với học thuyết của tà ma ngoại đạo.

Đạo lư tâm ấn sắc và sắc ấn tâm hay tâm duyên tâm chơn đới chất, bên Thiền Tông gọi là Tâm Ấn. Tâm Ấn gọi cho đủ là tâm ấn tâm, nghĩa là sử dụng Phật Đạo nơi tâm lực của ḿnh đă giác ngộ ấn chứng vào tâm lực của đệ tử mà ḿnh muốn thọ kư. Đạo lư này được thí dụ như sau:

Bà con ḿnh ở Việt Nam đang bị đói khổ tuyệt vọng liền viết một lá thư gởi sang Mỹ cầu cứu. Ḿnh đọc lá thư đó liền xúc động rơi nước mắt, lập tức vào nhà băng lấy tiền gởi về tiếp tế cho họ. Bà con ḿnh khi được tiền của ḿnh gởi về mừng quá. Lần sau họ cũng viết một lá thư khác kể lễ mọi thứ đau khổ nơi quê nhà để xin thêm tiền, nhưng khi ḿnh đọc lá thư đó chẳng những không xúc động rơi nước mắt mà lại c̣n tức giận xé nát lá thư bỏ vào vỏ rác. Theo cái nh́n của Phật Giáo, hai lá thư vừa kể trên có hai trường hợp khác nhau khiến cho tâm lư của người nhận lá thư có hai thái độ cũng khác nhau; nguyên do lá thư đầu của người gửi cầu cứu đă chuyên chở đạo lực đau khổ do tâm của người gửi ấn vào và đạo lực đau khổ đó ấn vào tâm của người nhận khiến tâm người nhận bị xúc động rơi nước mắt lập tức gửi tiền về cứu khổ. C̣n lá thư thứ hai lại chuyên chở đạo lực tham lam do tâm của người gửi ấn vào và đạo lực tham lam đó lại ấn vào tâm của người nhận khiến tâm của người nhận nổi lên phiền năo tức giận đă không gửi tiền về cứu giúp mà lại c̣n chửi mắng nguyền rửa liền xé bỏ lá thư nói trên. Những lá thư kể trên là những đới chất chuyên chở đạo lực làm gạch nối giúp cho tâm hồn người gửi duyên nhau với tâm hồn người nhận để giao cảm.

Có những tác phẩm, những cốt truyện, những án thi ca đă chuyên chở đạo lực, thường gọi là những tác phẩm, những cốt truyện, những án thi ca có hồn của những tác giả ấn vào khiến cho những đọc giả hay khán giả bị cảm xúc theo, điều đó chứng tỏ những tác phẩm nói trên thể hiện được văn dĩ tải đạo. Nhưng những đạo lực đây thuộc về T́nh Đạo mà không phải Trí Đạo. T́nh Đạo là đạo lực của t́nh cảm mà không phải là đạo lực của trí tuệ. C̣n Kinh văn của Phật Giáo th́ thuộc về đạo lực của trí tuệ, nên gọi là Phật Đạo. Người đọc tụng Kinh Phật là đọc tụng Trí Đạo hay đọc tụng Phật Đạo đă được chuyên chở trong Kinh văn và khiến cho Trí Đạo hay Phật Đạo đó được ăn sâu vào tâm làm gạch nối giao cảm với chư Phật trong mười phương, cho nên trong ba Tự Quy Y, Tự Quy Y thứ nh́ nói rằng: Tự quy y Pháp xin nguyện chúng sanh, thấu rơ Kinh tạng trí huệ như biển là nói lên ư nghĩa Trí Đạo hay Phật Đạo đă được chuyên chở trong các Kinh văn của Phật Giáo.

 

II.- Ư NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ TỤNG NIỆM:

 

       Ư nghĩa tụng niệm đă được giài thích trong lời nói đầu Nghi Thức Tụng Niệm do Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam biên soạn dành cho hàng cư sĩ sử dụng với sự chứng minh của Ḥa Thượng Thích Tịnh Khiết, Ḥa Thượng Thích Giác Nhiên, Ḥa Thượng Thích Khánh Anh, Ḥa Thượng Thích Giác Nguyên, Hoà Thượng Thích Thiện Ḥa xin ghi lại như sau:

 

TỤNG là đọc tụng. NIỆM là suy nghĩ nhớ tưởng. TỤNG NIỆM là miệng đọc tụng tâm nhớ nghĩ, tâm và miệng hợp nhứt, chú định vào lời Kinh tiếng Pháp. Tụng niệm có nhiều ư nghĩa:

 

- Tụng niệm để giữ tâm hồn được trong sạch, giao cảm với các tâm niệm tối cao. Tụng niệm lại là cách huân tập tâm thức rất tốt, rất dễ dàng.

 

- Tụng niệm để ôn lại những lời Phật dạy, hầu lấy đó làm phương châm cho đời sống hằng ngày và gieo giống Bồ Đề giải thoát vào tâm thức.

 

- Tụng niệm để kềm chế thân khẩu trong khuôn khổ thanh tịnh, trang nghiêm, chính đáng, không cho nói năng, hàng động buông lung theo tập quán đê hèn tham dục.

 

- Tụng niệm để cầu an, để ngăn ḷng tội lỗi, dứt trừ nghiệp chướng lâu đời hầu tránh khỏi tai họa do tội lỗi nghiệp chướng gây nên.

 

- Tụng niệm để cầu siêu, để chuyển tâm niệm của người khác, khiến họ xa ĺa nghiệp nhân xấu ác, rời khỏi cảnh giới tối tăm, siêu sanh về lạc quốc.

 

- Tụng niệm để làm cho tiếng Pháp Âm lưu chuyển trong nhân gian, cảm hóa mọi người cải tà quy chánh.

 

- Tụng niệm để kích thích, nhắc nhở ḿnh và người trên con đường làm lành, học đạo.

 

- Tụng niệm để hướng ḷng bi nguyện đến tất cả chúng sanh, cầu cho chúng sanh an ḥa vui vẻ.

 

- Tụng niệm để tỏ ḷng sám hối tội lỗi trước ngôi Tam Bảo, là nơi hoàn toàn thanh tịnh, không chút tội lỗi nhiễm ô.

 

      Đây là ư nghĩa và giá trị tụng niệm trong giai đoạn tu học để thâm nhập được kinh tạng giúp cho trí tuệ nơi tự tâm khai mở rộng lớn như biển cả. Ngoài ư nghĩa và giá trị tụng niệm nói trên, người tu tập cần phải áp dụng ba phương pháp sau đây để chuyển đạt tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật trong mười phương và để tâm ḿnh thể nhập tâm chư Phật trong thế giới Chân Như. Ba phương pháp tu tập gồn có Tụng Kinh, Tŕ Kinh và Tŕ Chú.

 

A)- TỤNG KINH:

 

      Tụng kinh có chỗ gọi là đọc kinh. Đọc Kinh khác với Tụng Kinh. Đọc Kinh nghĩa là chúng ta cầm lấy quyển kinh nào ḿnh muốn đọc để hiểu biết đạo lư trong kinh đó và đọc ở nơi bất cứ chỗ nào cảm thấy tiện lợi mà không cần đến h́nh thức nghi lễ trang nghiêm.

 

      Ngược lại Tụng Kinh nhằm mục đích tu tập cho nên chúng ta cần phải sử dụng nghi lễ và chọn chỗ trang nghiêm nơi trước bàn Phật đầy đủ hương đèn để hành tŕ. Nói cho dễ hiểu Đọc Kinh là để cầu hiểu biết đạo lư và Tụng Kinh là để cầu nguyện cảm ứng đạo giao. Ư nghĩa Đọc Kinh và Tụng Kinh đă giải thích rơ trong Yếu Chỉ Kinh Pháp Hoa, trang 80 và 81 cùng một tác giả được ghi lại như sau:

 

      1/- ĐỌC KINH:  đọc kinh nghĩa là đọc cái đạo lư sâu xa của kinh chứ không phải đọc lời văn trong kinh. Lời văn trong kinh không phải là đạo lư của kinh, mặc dù không có lời văn trong kinh th́ đạo lư của kinh không biết nương tựa vào đâu để biểu lộ. Cho nên trong kinh đức Phật nói rằng: Y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết, nghĩa là căn cứ nơi kinh điển để giải nghĩa th́ nói oan Phật ba đời và nếu như ĺa kinh điển một chữ th́ giống tà thuyết của ma quỷ.Kinh Phật thường nói: đọc kinh cầu lư mà không phải đọc kinh để cầu hiểu biết. Đạo lư của chư Phật hầu hết đều chứa đựng trong các kinh văn và các kinh văn theo lời Phật dạy là ngón tay chỉ mặt trăng và các kinh văn không phải đạo lư mà cũng không phải là mặt trăng. Người nào đọc kinh nắm được yếu chỉ của đạo lư trong các kinh th́ người đó theo Phật giáo mới thật sự là kẻ biết đọc kinh.

 

      2/- TỤNG KINH: người tụng kinh không phải là tụng văn chương trong kinh và cũng không phải là tụng theo ư nghĩa của kinh. Người tụng kinh đúng theo ư của Phật dạy là để phát huy năng lực trí tuệ mầu nhiệm của kinh. Mỗi quyển kinh của đức Phật nói đều có ẩn chứa năng lực trí tuệ mầu nhiệm ở trong. Năng lực trí tuệ mầu nhiệm đó có công đức vô biên hóa giải tận gốc rể tất cả phiền năo của chúng sanh và khiến cho sáu căn nơi mỗi chúng sanh trở nên thanh tịnh. Người tụng kinh có căn bản th́ năng lực trí tuệ mầu nhiệm của kinh tự nhiên phát sanh, cũng như người tu tập năm Căn ( ngũ Căn) có căn bản th́ năm Lực (ngũ Lực) tự nhiên phát sanh??.. .. .. Người tụnh kinh cũng thế, tụng đến khi nào thâm nhập kinh tạng th́ năng lực trí tuệ mầu nhiệm tự nhiên phát sanh và nhờ năng lực trí tuệ đó tẩy trừ tất cả nghiệp căn phiền năo, đồng thời khiến cho thân tâm trở nên thanh tịnh sáng suốt. Như vậy, mục đích của người tụnh kinh là cầu năng lực trí tuệ thể hiện mà không phải tụng kinh để thưởng thức ư nghĩa văn chương trong kinh điển.

 

      Trong giáo lư Phật Giáo, những Kinh của chính đức Phật giảng dạy gồm có hai loại: một loại thuộc về hiển giáo và một loại thuộc về mật giáo. Hai loại này theo Bát Nhă Tâm Kinh Qua Cái Nh́n Của Duy Thức, cùng một tác giả, trang 112 và 113 giải thích rằng:

 

      Hiển Giáo là giáo lư phương tiện, trong đó đức Phật tùy theo căn cơ và tŕnh độ cao thấp của chúng sanh, tŕnh bày những nguyên lư Tứ Đế, Nhân Quả, Luân Hồi, Thiện Ác, Nghiệp Báo, nguồn gốc sanh tử..v..v.... Đồng thời đức Phật c̣n đưa ra những phương pháp tu tập diệt khổ như giáo lư Bát Chánh Đạo, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư Túc, v..v.... giúp cho chúng sanh sớm được giác ngộ và giải thoát.  

 

      Mật Giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật, cũng gọi là Mật Ngôn hay Chân Ngôn, tức là Pháp Âm của Pháp Thân chư Phật. Mật Ngôn có quyền năng siêu việt, linh ứng phi phàm không thể nghĩ bàn. Mật Ngôn hay Chân Ngôn thường gọi là Thần Chú. Thần Chú của Mật Giáo không thể giải thích như giáo lư của Hiển Giáo. Thần Chú của Mật Giáo đ̣i hỏi nơi sự hành tŕ để tăng trưởng năng lực hơn là để hiểu biết.

 

      a)- Đặc biệt trong hai loại Hiển và Mật nói trên, có những Kinh Phật chỉ tuần tuư Hiển Giáo, như Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Bát Nhă,  Kinh Tiểu Bổn Di Đà, Kinh Bi Hoa, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ,..v..v...?, nghĩa là những Kinh này chỉ chuyên phần lư giải mà trong đó không có thiết lập những câu Thần Chú ở trong cho nên đều thuộc về loại hiển giáo cả. Mặc dù trong những kinh đó, có những loại chuyên về lư giải, có những loại sau phần lư giải dạy cách tu quán và có những loại sau khi tán dương những công đức sâu dầy của chư Phật, chư Bồ Tát trong mười phương, dạy cách tu tập theo pháp môn đó.

     

      b)- C̣n một số Kinh Phật thuộc về loại Hiển Mật Viên Thông của Mật Giáo, nghĩa là những Kinh này trong đó có phần Hiển Giáo và có phần Mật Giáo. Phần Hiển Giáo nhằm giải thích ư nghĩa, giá trị và diệu dụng của Kinh và phần Thần Chú là pháp môn hành tŕ tu tập của Kinh này, như Kinh Lăng Nghiêm là phần Hiển Giáo và Thần Chú Lăng Nghiêm là phần Mật Giáo, Bát Nhă Tâm Kinh là phần hiển giáo và Thần Chú Yết Đế là phần Mật Giáo, Kinh Dược Sư là phần Hiển Giáo và Thần Chú Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn là phần Mật Giáo, Kinh Pháp Hoa là Hiển Giáo và Phẩm Đà La Ni thứ hai mươi sáu  nói lên Thần Chú: An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, mamanễ,?.. ...... là phần Mật Giáo?..v..v?.... Những kinh này sau phần lư giải ư nghĩa, giá trị và diệu dụng của Kinh có thiết lập Thần Chú để hành tŕ tu tập đều thuộc về Hiển Mật Viên Thông của Mật Giáo cả.

 

 

 

B)- TR̀ KINH:

 

      Tŕ Kinh th́ khác hơn tụng kinh. Tụng kinh là tụng theo nhu cầu theo sở nguyện, như cầu an, cầu tai qua nạn khỏi, cầu bệnh, cầu sám hối nghiệp chướng tội khiên..v..v...... và người tụng kinh, họ tụng rất nhiều kinh mà họ thích, tụng hết kinh này đến kinh khác, không có phát tâm chuyên tụng duy nhất vào một quyển kinh nào cho thuộc ḷng nhuần nhuyễn, cho được thuần thục để đạt đạo cả.

 

 

      C̣n Tŕ Kinh là tu tập bằng cách hành tŕ duy nhất vào một quyển kinh cho được thuần thục, nhằm mục đích phát khởi Đạo lực (Phật lực hay Thần lực) của kinh chú, tức là Vô Tác Diệu Lực, nghĩa là năng lực mầu nhiệm không tác dụng hiện đang nằm ẩn sâu phía trong kinh tụng khiến cho nó hiển lộ để thâm nhập vào tâm người tụng, nhờ Đạo lực của kinh tụng này trước hết khai thông trí tuệ của ḿnh mở rộng như biển cả Thâm nhập Kinh tạng trí huệ như biển và sau đó tẩy trừ cho sạch hết tất cả tội chướng từ vô lượng kiếp đến nay trong tâm của người tŕ tụng khiến được giải thoát thanh tịnh, sớm chứng thành Phật quả. Người tŕ kinh, họ tụng chỉ một quyển kinh mà họ phát nguyện hành tŕ, tụng ngày đêm sáu thời, tụng hết ngày này đến ngày nọ, hết năm này đến năm khác và tụng đến khi nào đạt được đạo mới thôi.

 

      Những người tŕ kinh thông thường đều chọn những Kinh mà ḿnh muốn gởi tâm hồn vào đó để nhờ Đạo lực của Kinh chuyển tâm nguyện của ḿnh lên đức Phật mà ḿnh tôn kính và tin tưởng nhất. Người tin tưởng và tôn kính đức Phật A Di Đà liền tŕ kinh Tiểu Bản A Di Đà để chuyển lời tâm nguyện của ḿnh cầu được văng sanh Tây Phương Tịnh Độ, người tin tưởng và tôn kính đức Phật Thích Ca liền tŕ tụng Kinh Pháp Hoa để chuyển lời tâm nguyện của ḿnh cầu được vào thế giới Niết Bàn Thanh Tịnh nơi Pháp Thân Thích Ca Bổn Môn, người tin tưởng và tôn kính  đức Phật Dược Sư liền tŕ tụng Kinh Dược Sư để chuyển lời tâm nguyện của ḿnh cầu Phật gia hộ sớm gặp được lương y và và pháp dược để giải trừ tâm bệnh và thân bệnh của ḿnh, người tin tưởng và tôn kính đức Quán Thế Âm liền tŕ tụng kinh Phổ Môn để chuyển lời tâm nguyện của ḿnh cầu Bồ Tát cứu khổ cho cuộc đời sớm tai qua nạn khỏi..v..v....... C̣n những kinh khác tùy theo sở nguyện của người hành tŕ chọn theo nhu cầu, nhưng không ngoài mục đích dâng trọn niềm tin lên đức Phật.

 

C)-TR̀ CHÚ:

 

      Tŕ Chú cũng giống như tŕ kinh là tu tập bằng cách hành tŕ duy nhất vào một câu Thần Chú cho được thuần thục nhằm mục đích phát khởi thần lực của câu chú để tiêu trừ thiên tai ách nạn, bệnh tật, ma chiêu, hoá giải nghiệp chướng oan khiên lâu đời cho chúng sanh. Thần Chú, theo Phật Học Tự Điển của Đoàn Trung C̣n, trang 329, tiếng Phạn (Sanscrit) gọi Dhàrani (Đà La Ni), Trung Hoa dịch là Tổng Tŕ, là những mật ngữ  của chư Phật có sức linh ứng gia hộ người tu hành. Những mật ngữ đây có tánh cách kư hiệu, như những Mật Mă truyền tin, như những Code truyền âm do chư Phật chư Bồ Tát đặt ra để làm phương tiện nối kết tâm nguyện của chúng sanh với tâm lực của chư Phật chư Bồ Tát trong mười phương. Theo Kinh Bát Nhă, những năng lực phi phàm của Thần Chú được kể như: "Linh Chú Đại Thần, Linh Chú Đại Minh, Linh Chú Vô Thượng, Linh Chú Tuyệt Đỉnh, chân lư bất vọng có năng lực phi phàm tiêu trừ tất cả khổ nạn". Có Thần Chú của Phật, của Bồ Tát, của chư Thiên, của chư Thần. Ai hành tŕ Thần Chú của vị nào th́ được sức gia hộ của vị đó. Có một số người không thích hành tŕ Kinh Hiển Mật Viên Thông của Mật Giáo mà chỉ thích hành tŕ riêng Thần Chú của Mật Giáo mà thôi và cũng từ đó trở thành phong trào tu tập tạo thành một phái riêng gọi là Mật Tông.

 

 

(c̣n tiếp)

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 01/21/11