NGHĨA LƯ TỤNG NIỆM

 HT. Thích Thắng Hoan

 Kỳ 2

(tiếp theo)

  

 

III.- PHƯƠNG PHÁP HÀNH TR̀:

  

Đúng ra tụng kinh, tŕ kinh hay tŕ chú đều là phương pháp tu tập cả và bất cứ phương pháp nào cũng cần đến ba năng lực trợ đạo để đạt được tâm nguyện của minh. Như trên đă nói, người hành tŕ kinh với mục đích: khai thông trí tuệ tâm ḿnh mở rộng như biến cả để chuyển hoá phiền năo nơi tự tâm, nhờ năng lực trí tuệ này chuyển đạt tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật trong mười phương và khiến tâm ḿnh thể nhập tâm chư Phật trong thế giới chân như. Muốn đạt được tâm nguyện này, người tu tập phải thực hiện hai phương pháp sau đây:

 

      A)- Phát Huy Ba Năng Lực Trợ Đạo:

      Người tụng kinh, tŕ kinh hay tŕ chú phải triệt để phát huy cho được ba năng lực trợ đạo sau đây th́ sự tu tập mới hy vọng sớm đạt được viên thành sở nguyện. Công dụng của ba năng lực trợ đạo được giải thích như dưới đây:

     

      1)- Ngôn Lực: là năng lực của tiếng nói. Ngôn lực là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong việc chuyển tâm nguyện của ḿnh giảo cảm tâm của chư Phật trong mười phương mà ḿnh nguyện cầu. Theo Phật Giáo, tiếng nói của ḿnh th́ vô thường v́ bản chất của tiếng nói là ba động, tiếng nói ra khỏi miệng vang động được một khoảng không gian gần rồi bị tan biến, nhưng ngôn lực của tiếng nói th́ không bị tan biến, vẫn hiện hữu và di động trong không gian chờ gặp được duyên liền phát ra tiếng nói trở lại.

 

      Thí dụ như chúng ta gọi điện thoại viễn liên về bà con ḿnh ở Việt Nam. Tiếng nói của ḿnh ra khỏi miệng liền bị tan biến, nhưng ngôn lực của ḿnh th́ không bị tan biến và ngôn lực nói trên được điện lực của điện thoại chuyên chở khởi hành từ Mỹ Quốc chạy về Việt Nam chung vào điện thoại nơi bà con của ḿnh muốn gọi, đồng thời ngôn lực của ḿnh mượn âm thanh nơi điện thoại của bà con phát ra tiếng nói để cho bà con trực tiếp nghe được ḿnh nói chuyện.

 

      Từ đó cho thấy phía sau tiếng nói đều có ngôn lực và tiếng nói th́ bị tan biến nhưng ngôn lực th́ không bị tan biến và lưu chuyễn trong không gian. Cho nên người tụng kinh, tŕ kinh và tŕ chú đều cần đến phát huy được ngôn lực của ḿnh để chuyển đạt tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật trong mười phương. Đó là một yếu tố quan trọng trong ba năng lực trợ đạo của người tu tập.

 

      2)- Tâm Lực: là năng lực của tâm, tức là sự sinh hoạt của tâm, đây thuộc về yếu tố thứ hai của trợ đạo. Năng lực của tâm ở đây là chỉ cho năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người. Năng lực của tâm trong mỗi con người có hai nhiệm vụ:

 

       a)- Nhiệm vụ thứ nhất là làm hệ thống chuyển vận nối liền với tâm của chư Phật trong mười phương. Nguyên v́ năng lực của tâm tức là chỉ cho năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người và năng lực này được phát sanh từ Tạng Như lai, nhưng Tạng Như Lai lại là nguồn thể phát sanh ra tâm chư Phật. Từ đó cho thấy năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người quan hệ với tâm chư Phật trong mười phương được nối liền qua hệ thống Tạng Như Lai. Hệ thống năng lực của Tạng Thức trong mỗi con người quan hệ với tâm chư Phật cũng giống như điện thoại của ḿnh ở Mỹ Quốc quan hệ với điện thoại của bà con ḿnh ở Việt Nam qua hệ thống điện lực.

 

      b)- Nhiệm vụ thứ hai là khơi nguồn Đạo lực mầu nhiệm của kinh hiện khởi, đồng thời nhờ Đạo lực mầu nhiệm của kinh chuyển đạt tâm nguyện của ḿnh lên chư  Phật trong mười phương mà ḿnh mong cầu. Ngược lại người tụng kinh, tŕ kinh hay tŕ chú nếu như không phát huy được năng lực nơi tự tâm, không khơi được nguồn Đạo lực mầu nhiệm nơi kinh là không chuyển đạt được tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật trong mười phương.  

 

      Muốn phát huy năng lực của tâm phải nhờ đến ngôn lực làm trợ duyên kích động. Ngôn lực nếu như không kích động trợ duyên th́ tâm lực không hiện khởi, cũng như không có gió  làm trợ duyên kích động th́ sóng biển không thể nổi lên được. Sự  phát động của tâm lực đều tùy thuộc vào sự kích động mạnh hay yếu của ngôn lực, ngôn lực kích động yếu th́ tâm lực phát động thấp và gần, ngôn lực kích động mạnh th́ tâm lực phát động cao và xa.

 

 

 

 

 

      c)- Đạo Lực: là năng lực mầu nhiệm của kinh chú, năng lực này diệu dụng bất khả tư ngh́ đúng như trong Nghi Thức Sám Hối Hồng Danh, trang 15 có ghi: Biển Pháp Âm không lường Diệu Lực, Lời nhiệm mầu vô tận khắp vang. Đạo Lực nói trên có ba diệu dụng bất khả tư ngh́:

 

      1)- Thứ nhất, trên lộ tŕnh của tự tâm, soi thủng bức màn vô minh đen tối phủ kín trần ai, khai thông sanh lộ hoang vu, dẹp tan gai gốc nghiệp chướng lâu đời, thẳng đến bảo sở của chư Phật trong mười phương;

 

      2)- Thứ hai chuyển dẫn ngôn lực của người tu tập hành tŕ hướng đến giao tiếp với tâm Phật mà người nguyện cầu dâng trọn niềm tin vô biên; hơn nữa tâm người tu tập đă tụng Kinh trước khi điều khiển miệng họ phát âm tụng theo. Thí dụ người tụng Kinh Bát Nhă nằm ḷng, miệng họ vẫn tụng lào lào không lộn một chữ, nhưng lúc đó Ư Thức của họ nhớ tưởng mong lung đủ thứ sự việc đâu đâu không có mặt trong hiện trường; trường hợp đây chính là Tâm của họ tụng Kinh Bát Nhă mà Ư Thức của họ không hợp nhất với Tâm tụng theo. Từ đó cho thấy, Ngôn Lực của người Tụng Kinh phải nhờ Đạo Lực nơi Kinh chuyển lời nguyện cầu của họ thẳng đến Tâm của Phật mà họ nương tựa.

 

 

      3)- Thứ ba chuyển hóa ngôn ngữ của chúng sanh nguyện cầu biến thành Phật ngôn siêu việt ảnh hiện nơi chân tâm thanh tịnh thường trụ bất diệt. Nguyên v́ đạo lực không lường của các Kinh Chú theo Kinh Đại Bảo Tích chính là biển pháp âm mầu nhiệm của chư Phật trong mười phương.

 

 

      Trên lănh vực tha lực, người tụng kinh, tŕ kinh hay tŕ chú nếu như không phát khởi được đạo lực của kinh của chú để hành sự như những điều đă tŕnh bày trên th́ lời cầu nguyện của họ không ảnh hưởng đến chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng trong mười phương và họ lúc đó chỉ c̣n lại tự lực mà thôi, nghĩa là họ chỉ nhờ những lời kinh xóa dần những nghiệp chướng oan khiên đă tích lủy từ vô lượng kiếp trong tâm khảm của họ, cũng như trong băng video đă thâu nhạc, giờ đây không thích nữa muốn xóa nó đi bằng cách thâu những lời Kinh vào th́ những bản nhạc trong băng video nói trên tự nhiên bị xóa hết.

 

     

      B)- Cách Thức Thực Hành:

 

      Theo như phương pháp tu tập, người đọc tụng kinh chú đại đễ có thể phân làm hai hạng: một hạng tụng kinh, một hạng tŕ kinh.

 

      1)- Hạng Tụng Kinh:  

       

      Hạng tụng kinh là chỉ cho những người đọc tụng chẩm rải không nhanh,  tụng vọng lên xuống theo âm điệu trầm bổng như tiếng nhạc và tụng đều đều từng chữ một theo tiếng mơ trường canh.  Hạng tụng kinh theo kiểu này cũng có hai cách: một cách tụng bằng nóc vọng và một cách tụng bằng đan điền.

 

      a)- Cánh Tụng Bằng Nóc Vọng:

     

      Nóc vọng nơi cổ họng là trung tâm phát thanh ngôn ngữ. Người tụng kinh chú nếu như tụng bằng nóc vọng nơi cổ họng th́ tiếng kinh chú bị sức hơi của người tụng phát ra ngoài miệng tản mác loảng đi trong không gian giới hạn trở thành những làn sóng âm thanh ba động rồi tan biến dần. Ngôn lực của tiếng tụng kinh chú nói trên không đi thẳng trực tiếp vào trong nội tâm của người tụng mà ngược lại bị sức hơi người tụng đẩy ra theo âm thanh và cùng tan biến theo âm thanh. Ngay lúc đó có một phần ngôn lực của tiếng kinh chú lại đi gián tiếp vào trong nội tâm của người tụng qua hai ngưỡng cửa Nhĩ Thức và Ư Thức tiếp nhận th́ trở nên quá yếu kém không có sức mạnh trong việc khơi động tâm lực chuyên chở tâm nguyện của họ chuyển đạt lên tâm lực của chư Phật trong mười phương mà họ mong cầu nói chi đến việc khơi động đạo lực của kinh chú để chuyển hóa ngôn lực kinh chú và cầu nguyện tiến thẳng vào tâm lực của chư Phật, nguyên v́ năng lực này theo Duy Thức Học là thuộc về Tướng Phần (Images) là phần ngôn lực thứ hai phát ra từ hai màn nhĩ nơi hai lỗ tai của người tụng mà không phải là năng lực gốc của ngôn lực tác động. Người thực hành theo cách tụng bằng nóc vọng nói trên chỉ có giá trị trong sự thưởng thức ư nghĩa của kinh văn hơn là tạo dựng năng lực cầu nguyện, cho nên không mang lại được sự lợi ích nào cho họ. Cũng v́ năng lực vào nội tâm quá yếu kém, ngôn lực chuyên chở tâm nguyện của họ lại c̣n gặp phải các năng lực phiền năo khác đă nằm sẵn trong nội tâm nổi dậy lấn áp phá sóng khiến cho nó không móc nối được tầng số tâm linh của chư Phật trong mười phương để nguyện cầu. Trường hợp đây cũng giống như Đài Phát Thanh phát làn sóng âm thanh quá yếu bị các làn sóng âm thanh khác mạnh hơn lấn áp khiến cho người nghe bắt đài không được rơ. Người tụng kinh theo cung cách này th́ không thể nào đạt thành sở nguyện.

 

      Đă vậy ngày nay có những phong trào tụng kinh bằng lối ca hát và người tụng kinh thường chú trọng âm nhạc hơn ư nghĩa và giá trị chiều sâu của kinh tạng. Lối tụng kinh này phần lớn mở rộng trái tim khơi nguồn t́nh cảm hơn mà không phải mở rộng khối óc khơi nguồn trí tuệ. T́nh cảm lên ngôi th́ lư trí lùi vào bóng tối và t́nh cảm chỉ đạo th́ sức môi vẫn thấy đẹp, lợi dụng vẫn thấy trung thành. Hơn nữa trái tim mở rộng t́nh cảm tuông chảy th́ tất cả tâm lư phiền năo thi đua phát triển lôi kéo con người tụng niệm đi lần vào con đường xa đọa. Xưa kia tôi có một người chú trong đạo gọi là Sư thúc, ( tạm dấu tên). Sư thúc người không đẹp, da hơi đen, nhưng người tụng kinh âm thanh rất hay vọng trầm bổng êm đềm như âm nhạc, khiến các cô gái lối xóm trong làng mê say chạy theo và tranh nhau bám lấy Sư Thúc, cuối cùng có môt cô lôi được Sư Thúc ra đời hoàn tục, đấy cũng là do bởi tụng kinh theo giọng ca hát gây nên. Bởi thế trong luật đức Phật cấm các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không được nghe âm nhạc, chạy theo lời ca tiếng hát. Người tụng kinh theo điệu ca hát là chú trọng nghệ thuật hơn là chú trọng sự tu tập giải thoát, cho nên họ cầu nguyện điều chi th́ không thể nào thành công theo sự ước muốn trên lănh vực thanh tịnh an lạc.

 

      b)- Cách Tụng bằng Đan Điền:

    

      Đan Điền là trung tâm hội tụ và phát huy nội lực. Đan Điền là nơi chỉ cho cái rún, tức là nơi huyệt Thần Khuyết.  Cách tụng bằng Đan Điền, có chỗ gọi là tụng bằng bụng, là tụng bằng phương thức nín thở, nghĩa là người tụng thở ra bằng miệng mà không phải thở ra bằng hai lỗ mũi, cũng gọi là tụng bằng phương thức nín thở. Người tu tập trước khi tụng hít hơi vào đầy bụng qua hai lỗ mũi rồi nín thở lúc đó chuyển qua thở ra miệng bằng lối tụng mà không phải thở ra bằng hai lỗ mũi nữa. Người tụng đến khi nào cảm thấy hết hơi liền tiếp tục hít hơi vào qua hai lỗ mũi rồi chuyển qua thở ra miệng bằng lối tụng và cứ như thế tiếp tục măi cho đến khi hết thời kinh, đây gọi là tụng bằng Đan Điền. Cách tụng này mới hội tụ được ngôn lực đi thẳng vào nội tâm, mới kích động được tâm lực chuyên chở ngôn lực và mới khơi nguồn được đạo lực của kinh chú chuyển âm giao cảm với tâm lực của chư Phật trong mười phương. Người tụng bằng Đan Điền với mục đích là để hội tụ ngôn lực cũng giống như người lực sĩ trước khi cử Tạ nặng 100 kg phải nín thở để dồn lực tập trung vào Đan Điền và nhờ đó mới cất nỗi một cái tạ năng 100kg nâng lên khỏi đầu mà không cảm thấy khó khăn. Tụng kinh bằng phương pháp nín thở cũng giống như phái Tịnh Độ chủ trương niệm Phật bằng phương pháp hơi thở, nghĩa là thở ra nơi miệng bằng phương pháp niệm Phật, tức là người niệm Phật trước khi niệm hít hơi vào bằng hai lỗ mũi rồi niệm Phật để thở ra nơi miệng. Một hơi thở có thể niệm nhiều câu danh hiệu Phật và niệm danh hiệu Phật được nhiều hay được ít là tùy theo hơi thở của người niệm có dài hay có ngắn. Như họ chủ trương: Hành giả niệm Phật mười hơi nhứt tâm bất loạn sẽ được Phật độ.

 

       2)- Sự Khác Biệt Giữa Ngôn Lực Tụng Kinh

            Với Ngôn Lực Tŕ Kinh Và Tŕ Chú:

 

      Ngôn lực của người tụng kinh so sánh không bằng ngôn lực của người tŕ kinh và của người tŕ chú, mặc dù cả ba đều tụng bằng đan điền. Ngôn lực của người tụng kinh th́ yếu hơn ngôn lực của người tŕ kinh và của người tŕ chú.  Nguyên do:

 

      a)- Người Tụng Kinh, nếu tụng một ḿnh, mặc dù tụng bằng Đan Điền và cách tụng chẩm rải và tụng đều từng chữ một theo tiếng mơ trường canh như đă tŕnh bày ở trên nơi tiết mục Hạng Tụng Kinh, ngôn lực của họ yếu hơn so với ngôn lực của người tŕ kinh và của người tŕ chú. Ngôn lục của người tụng kinh bằng Đan Điền nhưng tụng theo nhịp điệu trường canh của tiếng mơ có giá trị ở chỗ là chỉ móc nối được tần số ánh sáng trí tuệ phóng quang của tâm linh chư Phật mà không trực tiếp được thẳng đến tâm linh của chư Phật và chỉ chuyển đạt được tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật qua sự phóng quang để chứng minh gia hộ mà không đủ sức tự xóa nỗi những gốc rễ phiền năo nghiệp chướng lâu đời thâm căn cố đế trong tâm khảm của người tụng. Hiện tượng đây cũng giống như chiếc máy bay chạy chậm không thể cất cánh được để bay lên trên trời xanh.  Ở trường hợp này và theo cung cách tu tập nói trên, người tụng kinh bằng Đan Điền muốn móc nối được tầng số ánh sáng trí tuệ phóng quang của tâm linh của chư Phật để chuyển đạt tâm nguyện của ḿnh nhờ chư Phật chứng minh gia hộ và đồng thời xóa tan những gốc rễ phiền năo nghiệp chướng lâu đời trong tâm khảm chỉ có cách là phải nhờ cộng lực của nhiều người cùng tụng với ḿnh trong một đạo tràng để hổ trợ th́ mới đạt được sở cầu như nguyện. Cọng lực của nhiều người cùng tụng được hội tụ với ḿnh vào một điểm ư nguyện tạo thành một năng lực có sức mạnh phi phàm lập tức chuyển đến chư Phật trong mười phương không có ǵ cản trở nỗi. Hiện tượng này cũng tương tợ như trời giữa trưa đang nắng gắt chúng ta lấy kiến lúp xem chữ gom những tia sáng mặt trời lại thành một điểm nhỏ và ngay lúc đó  những tia sáng mặt trời càng hội tụ th́ sức nóng càng tăng lên gấp bội có thể đốt cháy bất cứ bùi nhùi nào đưa vào.

 

      b)- C̣n người Tŕ Kinh th́ cách thức đọc tụng không giống như người tụng kinh. Họ tụng Kinh bằng phương pháp hành tŕ nhằm mục đích phát huy tột đỉnh năng lực của ngôn lực, của tâm lực, của đạo lực kinh chú để vừa chuyển đạt những tâm nguyện lên thẳng đến cảnh giới chư Phật mong nhờ chư Phật chứng minh thọ kư mà không cần phải qua tầng số ánh sáng trí tuệ phóng quang của tâm linh chư Phật để giao cảm và đồng thời tận dụng những năng lực phi phàm này chuyển hóa tất cả hạt giống phiền năo đă tàng trử lâu đời trong Tạng Thức từ vô lượng kiếp về trước trở thành Bạch Tịnh Thức để sớm chứng quả vô thượng Bồ Đề. Những người tŕ Kinh hay đ̣i hỏi họ phải thuộc ḷng những Kinh những mà họ hành tŕ và không cần phải lật Kinh xem chữ để tụng và họ tụng rất nhanh chỉ nghe âm thanh tuông chảy liên tục trên lời Kinh như ḍng thác nước chảy mà không nghe rơ những chữ của Kinh. Họ tụng càng nhanh chừng nào càng hay chừng nấy giống như các Thầy trong các tu viện tụng chú Lăng Nghiêm mỗi buổi sáng. Họ tụng càng nhanh chừng nào th́ năng lực càng phát triển mạnh theo tỷ lệ thuận chừng nấy cũng giống như chiếc máy bay chạy càng nhanh th́ mới cất cánh lên được trên trời xanh.

 

      Điều nên chú ư, những người tŕ Kinh phần đông họ  tụng riêng một ḿnh mà không thể chung với đại chúng, nguyên v́ đại chúng đa số không thuộc ḷng Kinh và làm trở ngại cho việc hành tŕ của họ. Có đại chúng th́ phải tụng chậm theo cung cách tụng Kinh đă tŕnh bày ở trước để cho họ cùng tụng và như thế đạo tràng trở nên thanh tịnh không bị rối loạn do bởi âm thanh đại chúng không ḥa hợp. Họ tụng một ḿnh không cần phải tụng từng chữ theo tiếng mơ và trong lúc tụng kinh hoặc tụng chú, tiếng mơ chỉ là điểm từng đoạn thưa thưa để trợ lực trong lúc hành tŕ mà không cần đánh nhanh theo từng tiếng đọc tụng. Cung cách đọc tụng theo kiểu này gọi là Tŕ Kinh.

 

      c)- Riêng người Tŕ Chú cách tụng cũng giống như người Tŕ Kinh. Nhưng các câu Chú th́ ngắn hơn các Kinh tụng, dễ thuộc ḷng và dễ hành tŕ. Nhưng Thần Chú th́ khác hơn lời Kinh, lời Kinh th́ có nghĩa lư nhưng Thần Chú th́ không thể cắt nghĩa, không diễn đạt, lời Kinh th́ phát ra đạo lực của trí tuệ, c̣n Thần Chú th́ phát ra thần lực của chơn ngôn. Lời Kinh th́ chuyển hóa con người được giác ngộ và giải thoát khổ sanh tử của chúng sanh, c̣n Thần Chú th́ giải trừ tai ách, bệnh tật, chuyển hóa nghiệp chướng oan khiên cho chúng sanh.

 

      Người hành tŕ Thần Chú có người tụng 7 biến một thời, có người tụng 21 biến một thời, có người tụng 100 biến một thời rồi tiếp tục tụng trở lại và tụng bằng cách nào không cố định là tùy theo người phát nguyện và miễn làm sao người tŕ chú đạt được sở nguyện là viên măn.    

 

IV.- KẾT LUẬN:

 

      Người tu tập, muốn giải trừ được bệnh khổ ách nạn,thiên tai, ma chướng, muốn chuyển đạt được tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật trong mười phương và muốn tâm ḿnh được thể nhập tâm chư Phật trong thế giới chân như phải hành tŕ theo ba cách sau đây:

 

1)- Phải Tụng Kinh bằng Đan Điền th́ mới tác động được tâm lực để chuyên chở ngôn lực cầu nguyện và mới phát huy được đạo lực trong kinh để giao cảm với tâm lực của chư Phật mà ḿnh nguyện cầu. Muốn đạt thành sở nguyện, người tu tập không nên tụng Kinh bằng nóc vọng và cũng không nên tụng kinh bằng lối ca hát v́ sẽ làm mờ trí tuệ giác ngộ của người tu.

 

2)- Phải Tŕ Kinh để Kinh Tạng thâm nhập tâm ḿnh và nhờ đó trí tuệ của tâm ḿnh mở rộng như biển cả. Có được như thế mới chuyển đạt được tâm nguyện của ḿnh lên chư Phật trong mười phương mà ḿnh nguyện cầu, mới có thể chuyển hoá được nghiệp chướng lâu đời trong tâm ḿnh và nhờ đó tâm ḿnh mới thể nhập được tâm chư Phật trong thế giới chân như. 

 

 3)- Phải Tŕ Chú để phát huy năng lực của Thần Chú và nhờ đó mới tiêu trừ được thiên tai ách nạn, bệnh tật, ma chiêu, hoá giải được nghiệp chướng oan khiên lâu đời trong tâm khảm của ḿnh;

đồng thời được chư Phật, chư Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp Thiện Thần đều đến gia hộ tâm nguyện được viên thành, cầu chi đều như ư, nguyện chi cũng đạt thành. Từ đó bến bờ giác ngộ và giải thoát không c̣n xa.

 

(C̣n tiếp)

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 01/21/11