THÍCH LƯ SỰ ƯƠNG NGẠNH

NGÔN HẠNH LẠNH NHƯ TIỀN

Tịnh Minh soạn dịch

 

 

Tại tu viện Gô-xi-ta (Ghosita) ở Kô-xam-bi (Kosambi) có hai Sa-môn uy tín, một là Giám luật và một là Giáo thọ. Cả hai đều hướng dẫn 500 chúng Tỳ-kheo. Một hôm tắm giặt xong, vị Giáo thọ ra khỏi pḥng tắm mà không đổ hết nước trong chậu, vị Giám luật thấy vậy hỏi:

- Thầy để nước trong chậu phải không?

- Thưa vâng, sao ạ?

- Như vậy là có tội! Nhưng nếu vô t́nh th́ không sao.

- Thật sự tôi không cố ư, xin cảm ơn Thượng tọa đă nhắc nhở.

Sau đó đồ chúng của vị Giám luật hay chuyện và tỏ vẻ xách mé với môn đệ của vị Giáo thọ:

- Thầy của các anh chỉ chú trọng về mặt chữ nghĩa văn tự chứ có quan tâm ǵ đến oai nghi tế hạnh, giới luật tu hành; nhiều chuyện c̣n thô tháo, bết bát lắm!

Nóng mũi v́ những lời trịch thượng, môn đệ của vị Giáo thọ đến thỏ thẻ với thầy ḿnh, rồi cũng ra mặt trả đũa:

- Thầy của quư vị ngon lắm! Bề ngoài trông có vẻ “tu rị tu rị” nhưng bên trong ai mà lường được: quanh co khúc khuỷu, lởm chởm gồ ghề!

Thế là hai bên hỏa bốc, ai cũng ra sức bảo vệ uy danh của thầy ḿnh, dần dần tạo thành một cuộc khẩu chiến dai dẳng, tệ hại.

Đức Thế Tôn được tin và đă hai lần gởi lời giảng ḥa nhưng không được, lần thứ ba Ngài đích thân đến tu viện Gô-xi-ta, hợp chúng và khuyên rằng:

- Này các thầy Tỳ-kheo, đủ rồi! Đừng căi nhau nữa. Các thầy thấy đấy, căi vă, xung đột, bất ḥa, tranh luận v.v… tất cả đều bất lợi. Các thầy nên đoàn kết, ḥa thuận với nhau.

Họ không những không nghe lời khuyên của Đức Thế Tôn mà có vị c̣n ngông nghênh, lên mặt:

- Bạch Thế Tôn, xin Ngài hăy an thân lập mệnh, hăy ung dung thanh thản trên cơi đời này. Chúng tôi căi vă, xung đột, bất ḥa, tranh luận… nhưng nổi danh đó!

Đức Thế Tôn im lặng trong giây lát rồi tha thiết nói:

- Này các thầy Tỳ-kheo, các thầy đă từ bỏ gia đ́nh, xuất gia học đạo, thọ tŕ giới luật, nghiên cứu kinh văn, hăy để ngọn đèn trí tuệ của các thầy tỏa sáng khắp nhân gian mới xứng danh là bậc thượng sĩ ly tham, hiếu ḥa, nhẫn nhục.

Mặc cho Đức Thế Tôn hết lời khuyên răn, nhưng chứng nào tật nấy, họ cho rằng có tranh căi mới lừng danh, tiến bộ.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nhận thấy rằng:

- Như thế này th́ ta bị vây hăm, chen lấn và không sao có được cuộc sống an lành. Thiết tưởng ta nên rút khỏi đám đông, lui về cô tịch.

Ngài đi khất thực một ṿng ở Kô-xam-bi; rồi, không một lời từ giă Tăng đoàn, Ngài lặng lẽ ôm bát đến thẳng làng Ba-la-ka (Balaka), thuyết pháp cho Đại đức Ba-gu (Bhagu) hiểu được nếp sống cô tịch. Sau đó Ngài đến vườn Lộc Uyển, phía đông rừng Trúc Lâm, giáo hóa cho ba thanh niên nhận ra cảnh an lạc hạnh phúc của sự ḥa hợp; và từ đó Ngài đến Pa-ri-lay-da-ka (P?rileyyaka), nơi Ngài hoan hỷ an cư mùa mưa tại rừng Bảo Lâm, dưới một cây cổ thụ xanh mát với sự trợ giúp của một chú voi già.

Các Phật tử ở Kô-xam-bi một hôm đến tu viện hầu thăm Đức Thế Tôn nhưng không thấy Ngài, họ hỏi:

- Bạch quư sư, Đức Thế Tôn đâu?

- Đến rừng Pa-ri-lay-da-ka rồi.

- V́ sao?

- Ai mà biết được!

Sau đó họ vỡ lẽ và nổi nóng nói:

- Các sư này quá quắt lắm! Chúng ta đừng lễ nghi cung kính, cúng dường ẩm thực cho họ nữa.

Và từ đó họ bày tỏ thái độ xem thường các sư ồn ào lất phất, lơ ngơ hiếu thắng kia.

Không c̣n mấy ai tới lui giúp đỡ, thiếu trước hụt sau, đói khát dài dài; các sư mới nhận ra hậu quả tai hại của sự phóng ngôn kiêu mạn. Họ cùng nhau xin lỗi, và muốn gặp Đức Thế Tôn để đảnh lễ sám hối, nhưng v́ mùa mưa đang thời cao điểm, không thể đi được, họ phải đành chịu cảnh khốn khó, cơ hàn. Trong khi Đức Thế Tôn, một ḿnh một bóng, an nhiên tự tại trong chốn rừng sâu với chú voi già viễn ly tịch tịnh và cậu khỉ vàng thân thiện, khôn lanh.

Cuối mùa mưa, các Phật tử thuần thành và 500 Tỳ-kheo khẩn cầu tôn giả A-nan đi cung thỉnh Đức Thế Tôn về. A-nan và các sư lên đường, nhưng khi đến rừng Bảo Lâm, A-nan tế nhị để họ đứng bên ngoài, một ḿnh vào vấn an, hầu Phật. Sau khi đảnh lễ Bổn Sư, A-nan ngồi sang một bên, Đức Thế Tôn hỏi:

- Thầy đến một ḿnh sao?

- Bạch Thế Tôn, với 500 Tỳ-kheo nữa.

- Các thầy ấy đang ở đâu?

- Dạ… quư huynh đệ đang đứng bên ngoài.

- Mời các thầy ấy vào.

A-nan mời các thầy vào. Họ mừng mừng tủi tủi, quỳ lạy dưới chân Đức Thế Tôn, và ngậm ngùi nói:

- Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn phải chịu cảnh gian khổ như thế này, cô quạnh và hiu hắt quá! Không một bóng người tới lui giúp đỡ; bốn bề cây cỏ, dày đặc núi rừng, gạo nước đâu mà sống qua ngày! Các thầy đồng loạt khóc nức nở.

Đức Thế Tôn mỉm cười, nói:

- Này các thầy Tỳ-kheo, đừng lo ngại và đau buồn cho ta. Chú voi già Pa-ri-lay-da-ka là người bạn tâm phúc của ta. Chú không biết nói tiếng người nhưng chú hiểu được ḷng người và có một tâm hồn vị tha, chung thủy vô hạn. Ai có được người bạn như thế, người ấy không bao giờ cảm thấy cô đơn và rất vững tâm trên bước đường viễn ly tịch tịnh.

 

Ngài đọc kệ:

Nếu gặp bạn sáng suốt,

Cẩn trọng, sống hiền lương,

Hàng phục mọi nguy biến,

Hoan hỷ kết bạn đường.

Nếu không gặp bạn trí,

Cẩn trọng, sống hiền lành,

Nên như vua từ bỏ,

Vương quốc bị xâm lăng,

Hăy sống đời đơn độc,

Như voi giữa rừng xanh.

Thà sống cảnh cô đơn,

Hơn bạn bè kẻ ngốc,

Sống lẻ loi đơn độc,

Không gây nghiệp hoành hành,

Như voi giữa rừng xanh,

Thênh thang vô tư lự.

 

Đức Thế Tôn đọc kệ xong th́ 500 Tỳ-kheo liền chứng quả A-la-hán.

Bấy giờ A-nan mới tŕnh lời cung thỉnh của hàng ngàn đệ tử nam nữ tại gia mời Thế Tôn trở về Kô-xam-bi. Đức Thế Tôn chấp thuận, và thế là thầy tṛ thu xếp y bát trở về Kỳ Viên. Tội nghiệp cho chú voi già, cứ quấn quít bên Đức Thế Tôn và buồn buồn chen giữa các thầy, tỏ vẻ lưu luyến không muốn giă từ ánh mắt hiền ḥa và dung nhan từ ái của đấng đại giác Thế Tôn. Hiểu ư, Thế Tôn vỗ vai voi, nói:

- Này Pa-ri-lay-da-ka, ta hiểu rơ tấm ḷng thiết tha trung hậu của bạn, nhưng rất tiếc là kiếp này bạn chưa có thể cùng chung sống và tu học với đại chúng. Hăy nuôi dưỡng chánh hạnh như ta và bạn dưới cội cây này. Thôi, hăy ở lại vui vẻ, ta đi đây. Pa-ri-lay-da-ka liền sụp hai chân trước xuống với hai hàng nước mắt ṛng ṛng. Không ai bảo ai, các thầy nh́n nhau và cũng rưng rưng nước mắt. Đưa tay vẫy chào tạm biệt chú voi già trung hậu và cánh rừng êm ả bao dung, Đức Thế Tôn cùng đồ chúng trở về Xá-vệ.

Được tin Đức Thế Tôn đă về, nhóm Tỳ-kheo lắm chuyện ở Kô-xam-bi kéo nhau đến sám hối. Quốc vương Kô-xa-la hay tin, đến thăm Đức Thế Tôn và thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn, con sẽ không cho các sư lộn xộn, quá khích đó vào nước con.

Đức Thế Tôn nói:

- Đại vương, đó là những Tỳ-kheo có tâm tu học, chỉ v́ thích tranh căi mà không nghe lời Như Lai. Nay họ đă nhận ra lỗi lầm và đến sám hối ta, nên để cho họ tới.

Được sự cho phép của Đức Thế Tôn và quốc vương, các thầy Tỳ-kheo ngông nghênh kia đến gặp Đức Bổn Sư, quỳ mọp dưới chân Ngài và khóc nức nở. Họ thành tâm sám hối, xin Đức Thế Tôn tha cho cái tội xung khí, bốc đồng của họ trước kia. Đức Thế Tôn hỷ xả, nói:

- Này các thầy Tỳ-kheo, các thầy đă phạm phải một lỗi lầm nghiêm trọng. Các thầy đă cắt đứt ái ân, xa rời cha mẹ, theo ta học đạo, tôn ta làm thầy; vậy mà các thầy không nghe lời ta! Thôi, hăy đứng lên. Hăy chánh niệm, ḥa hợp và tinh tấn. Chánh niệm, ḥa hợp và tinh tấn th́ an lạc.

 

Ngài đọc kệ:

 

Lắm người không biết rằng,

Ta chết v́ căi nhau,

Ai nhận ra điều đó,

Tranh căi lắng dịu mau.

(PC. 6)

 

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 01/21/11