BỒ TÁT NGUYỆN

Tuệ Sỹ

 

 

TIẾT 1: HẠNH NGUYỆN CỦA BỒ TÁT

I. Ư NGHĨA BỒ TÁT NGUYỆN

Bồ-đề tâm, Bồ tát hạnh, và Bồ tát nguyện, đó là ba yếu tố quyết định đưa đến Phật thừa. Trên kia, với chương thứ nhất, tán thán những phẩm tính siêu việt của Như Lai, Thắng Man phu nhân đă phát khởi tâm nguyện Bồ-đề, mong cầu quả vị giác ngộ v́ lợi ích không chỉ riêng ḿnh mà v́ lợi ích của tất cả. Rồi ở chương hai, Phu nhân lại đề ra những hành vi đạo đức thực tiễn của Bồ tát hạnh bằng mười đại thọ. Nhưng, như luận Thập trụ t́-bà-sa nói: «Phát nguyện cầu Phật đạo nặng nhọc hơn cả việc nâng đỡ ba ngàn đại thiên thế giới.» Chỉ có thể thành tựu mục tiêu tối thượng ấy bằng ư chí kim cang bất hoại. Ư chí ấy được gọi là «nguyện», là thệ nguyện hay quyết tâm. Cho nên, sau khi đă phát Bồ-đề tâm, khởi Bồ tát hạnh, chương này sẽ nói đến thệ nguyện vĩ đại của Bồ tát. Hoa nghiêm thám huyền kư[1] phân tích có bốn loại nguyện của Bồ tát:

l. Thệ nguyện, ước hẹn thời gian trước khi hành động.

2. Hành nguyện, gồm hai trường hợp: (a) cùng phát khởi một lần với hành động, (b) đối sự mà phát nguyện với chủ đích giữ vững tâm chí không để gián đoạn và tán loạn.

3. Nguyện sau hành tức bằng hành động mà hướng ước nguyện của ḿnh đến Bồ-đề đạo.

4. Tự thể vô ngại nguyện, tức đại nguyện cứu cánh đồng với biển pháp tánh, thong dong mà thành tựu tất cả sự nghiệp.

Bốn loại nguyện này trải suốt con đường hành đạo từ khi mới phát tâm cho đến khi đạt địa vị không thối chuyển.

Nhóm nguyện thứ nhất, như trường hợp Thiện Tài đồng tử sau khi được Văn-thù giảng dạy, phát tâm hướng thượng, mong cầu học hỏi đầy đủ Phật pháp và giác ngộ rốt ráo.[2]

Nhóm hạnh nguyện thứ hai, là những lời nguyện trong lúc hành động như được nói trong phẩm «Tịnh hạnh» của kinh Hoa nghiêm.[3] Theo đó, mỗi hành vi của ḿnh đều mang ước nguyện tưởng đến sự an lạc của chúng sanh. Thí dụ, khi trải giường chiếu th́ nguyện như vầy: «Khi trải giường chiếu, nguyện cho chúng sanh trải bằng thiện pháp, thấy chân thật tướng.» Hoặc khi cất bước ra đường th́ nguyện rằng: «Cất bước ra đường, nguyện cho chúng sanh bước lên lối Phật, vào vô y xứ.» Hoặc khi ngủ nghỉ th́ nguyện rằng: «Vào lúc ngủ nghỉ, nguyện cho chúng sanh thân được an ổn, tâm không loạn động.» Những lời nguyện như vậy, có mục đích làm cho tâm niệm của ḿnh không hề rời bỏ chúng sanh trong mọi hành vi cử chỉ của ḿnh, và do đó không hề xao lăng chí nguyện Đại thừa của ḿnh.

Nhóm nguyện thứ ba, cũng nói là sự hồi hướng.

Nhóm thứ tư là hạnh nguyện hay quyết tâm hành động của Phổ Hiền.[4]

Ba đại nguyện của Thắng Man phu nhân như là kết quả của các hành động bởi mười đại thọ nên có thể liệt vào nhóm thứ ba. Tuy nhiên, bản chất và nội dung của các đại nguyện này cũng bao trùm cả bốn nhóm nguyện vừa kể. Chúng ta sẽ nói thêm ở đoạn sau. Ở đây, chúng ta đưa ra một số nguyện thuộc nhóm thứ tư, và một số nguyện có tính chất tổng quát.

Nhóm nguyện thứ tư trong bảng liệt kê của Hoa nghiêm kinh thám huyền kư trên đây thực sự là nguyện lực bất khả tư nghị của Bồ tát trên hàng pháp thân đại sĩ,[5] nghĩa là đă trải qua một thời gian dài tu tập, thấy rơ bản chất của thế gian, thấy biết sâu xa Phật pháp. Đặc sắc của nguyện lực này như được diễn tả trong kinh Hoa nghiêm, phẩm «Nhập pháp giới», qua lời Bồ tát Di-lặc tán dương Thiện Tài đồng tử. Sau khi trải qua 5l nơi học hỏi đạo lư, trên quá tŕnh tu chứng của Đại thừa, bấy giờ Thiện Tài đồng tử đă hoàn toàn an trụ vững chắc trong chí nguyện Đại thừa. Ước nguyện và hành vi, cả hai không c̣n cách biệt. Cho nên, lời tán dương của Bồ tát Di- lặc nói: «Với những kẻ trôi nổi trong bốn ḍng nước xoáy,[6] con người chân thật này muốn làm con thuyền đại pháp đưa chúng sinh vượt qua đại dương. Với những kẻ ch́m ngập trong bùn lầy của kiến chấp, người này muốn làm chiếc cầu đại pháp. Với những kẻ tối tăm ngu dốt, người là ngọn đèn đại trí. Với những người lạc lối trong sa mạc sanh tử, người muốn làm kẻ chỉ bày lối đi của bậc Thánh…»[7] Thiện Tài sau khi nghe những lời tán thán ấy, hoan hỷ phấn khởi, chấp tay cung kính hướng về Bồ tát Di-lặc, bất giác nh́n lại hai bàn tay của ḿnh thấy đầy những hoa thơm đang nở rộ.

 

II. MƯỜI NGUYỆN SƠ PHÁT TÂM

Nhóm nguyện được nói có tính chất tổng quát, đặc trưng chí hướng của Bồ tát đạo, là mười nguyện được nhắc đến trong Du-già .[8] Xét về bản chất th́ thấy chúng có tính chất tổng quát, nghĩa là bao hàm từ những vị mới phát tâm mong cầu Phật đạo cho đến những hàng đại Bồ tát. Nhưng trong quá tŕnh tiến bộ của Bồ tát, chúng được liệt kê trong bảng những đức tính của Bồ tát sắp sửa bước vào Sơ địa, tức bắt đầu dự vào hàng Thánh giả của Đại thừa, vượt lên các hạng phàm phu.

Nói là được nhắc đến trong Du-già  nhưng xuất xứ chính xác phải nói từ phẩm «Thập địa», kinh Hoa nghiêm. Dưới đây sẽ lược dẫn theo tŕnh bày của kinh Hoa nghiêm.[9] Mười nguyện này như sau:

l. Nguyện cúng dường Phật:[10] Bồ tát quyết định như vầy: «Bằng tất cả mọi vật dụng cúng dường, cung kính cúng dường hết thảy chư Phật.» Giải thích của Thập trụ[11] nói: «Kể từ khi vừa mới phát tâm cho đến lúc thành tựu đại Bồ-đề, trong khoảng trung gian đó… cúng dường, tôn trọng… (Nhưng) bằng pháp Tiểu thừa mà giáo hóa chúng sanh, gọi là cung dưỡng (tức là cho). Bằng pháp Bích-chi-Phật mà giáo hóa chúng sanh, gọi là phụng cấp (tức là cấp dưỡng). Bằng pháp Đại thừa mà giáo hóa chúng sanh, gọi là cung kính.» Nói tóm lại, cúng dường chư Phật bằng sự giáo hóa được đề cao nhất.

2. Nguyện thọ tŕ chánh pháp: «Nguyện tiếp thọ Pháp luân của hết thảy chư Phật; nguyện nhiếp thọ Bồ-đề của hết thảy chư Phật; nguyện thủ hộ giáo của hết thảy chư Phật; nguyện duy tŕ pháp của hết thảy chư Phật.» Nhiếp thọ, tức thệ nguyện học hỏi để thấu suốt. Hộ tŕ, là sẵn sàng xả bỏ thân mạng cho sự tồn tại của chánh pháp v́ lợi ích cho tất cả.

3. Nguyện nhiếp pháp thượng thủ: «Nguyện trong tất cả thế gian, nơi nào có Phật xuất hiện, từ Đâu-suất thác sanh, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, thị hiện Niết-bàn, tôi thảy đều đi đến nơi đó, thân cận cúng dường, làm bậc thượng thủ trong đại chúng, thọ hành Chánh pháp, vận chuyển khắp trong mọi thời, khắp trong mọi xứ.» Nguyện này có hai phần: nhiếp thọ Phật pháp và làm thượng thủ trong đại chúng, nghĩa là ước nguyện có thể thay thế Phật mà vận chuyển Pháp luân. Nói cách khác, đây là thệ nguyện đảm trách công việc tuyên giáo cho bất cứ vị Phật nào xuất hiện trong thế gian.

4. Tăng trưởng chúng sanh tâm hành: «Nguyện rằng, tất cả Bồ tát hạnh, quảng đại, vô lượng, không hoại, không tạp, nhiếp các ba-la-mật, tịnh trị các địa, tổng tướng, biệt tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tất cả Bồ tát hạnh ấy, tôi đều giảng thuyết như thật, giáo hóa tất cả khiến cho tiếp thọ và hành tŕ, tâm được tăng trưởng.» Trong nguyện này, mong bằng các phương tiện, đúng với chân tính của sự vật, khuyến khích và làm tăng trưởng tâm hành của chúng sanh, nghĩa là nâng cao tŕnh độ tâm linh, để hướng dẫn bước vào Phật đạo. Nguyện này cũng được gọi là «tri chúng sanh tâm», ước nguyện biết rơ căn tánh của mỗi chúng sanh để thích hợp trong sự giáo hóa và tăng trưởng. Nhiếp luận thích gọi là «tu hành nguyện.»

5. Giáo hóa chúng sanh: «Nguyện rằng, tất cả chúng sanh giới, sắc hay vô sắc, tưởng hay vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng, loài sanh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm thấp, bằng biến hóa, hệ thuộc ba cơi, ở trong sáu thú, tất cả sinh xứ, được thâu nhiếp trong danh và sắc, các chủng loại như vậy, vân vân, tôi đều giáo hoá đưa vào Phật pháp, để vĩnh viễn đoạn trừ tất cả cơi thú của thế gian cho được an trụ trong Nhất thiết trí đạo.»

Nguyện thứ nhất, tu tập để phát triển tín tâm bằng sự cúng dường gần gũi, nguyện thứ hai, học hỏi vô biên Phật pháp. Hai nguyện này hướng đến sự thành tựu bản thân. Nguyện thứ ba, làm thượng thủ trong giáo hội, nguyện thứ tư, hỗ trợ phát triển, nâng cao đạo tâm cho những người đồng học hay đă có tín tâm. Nguyện thứ năm này là đưa những người chưa có tín tâm vào con đường Nhất thiết trí. Do đó, nguyện này cũng được gọi là «thành tựu chúng sanh.»

6. Nguyện biết rơ thế giới: «Nguyện rằng, hết thảy thế giới, quảng đại, vô lượng, thô hay tế, loạn trụ, hay đảo trụ, hay chánh trụ, hoặc đến, hoặc đi, sai biệt như màng lưới đế thanh minh châu, mười phương vô lượng, đủ loại bất đồng, tôi được thấy rơ bằng trí, hiện tiền thấy biết.» Nguyện này cũng được gọi là «thừa sự», thừa hành Phật sự hay phụng sự Phật pháp. Bởi v́, ước nguyện thấy biết, hiểu rơ thế gian, thấu suốt bản chất chân thật của chúng, không bị trở ngại trong bất cứ hành động nào của ḿnh, như vậy mà có thể phụng sự được toàn vẹn.

7. Nguyện tịnh Phật quốc độ: «Nguyện rằng, hết thảy quốc độ, nhập vào một quốc độ, một quốc độ nhập vào hết thảy quốc độ, vô lượng cơi Phật, tất cả tôi đều làm cho thanh tịnh, làm rực sáng bằng các vật dụng để trang nghiêm, xa ĺa hết thảy ô nhiễm, thành tựu đạo thanh tịnh, vô lượng chúng sanh có trí tuệ sung măn ở trong đó, tất cả đều vào cảnh giới bao la của chư Phật, tùy theo tâm chúng sanh mà thị hiện, khiến cho hết thảy đều hoan hỉ.» Đây là ước nguyện làm cho tất cả mọi thế gian đều trở thành tịnh độ, không có những khốn khổ vật chất, không có những hệ lụy phiền năo.

8. Nguyện đồng tâm hành: «Nguyện rằng, cùng với tất cả Bồ tát đồng một chí hướng và hành động, không thù oán, không ganh tị, tích tụ các thiện căn, với tất cả Bồ tát, cùng một duyên b́nh đẳng, thường cùng hội họp không rời bỏ nhau, tùy ư có thể hóa hiện đủ các Phật thân, tùy tâm có thể biết cảnh giới uy lực, trí của hết thảy Như Lai, được bất thối như ư thần thông, du hành tất cả thế gian, hiện h́nh trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thọ sinh, thành tựu bất tư nghị Đại thừa, tu Bồ tát hạnh.» Đây là ước nguyện luôn luôn gần gũi thiện tri thức. Gần gũi thiện tri thức là nhân tố chính yếu của Bồ tát đạo. V́ sự giác ngộ được thành tựu ngay giữa thế giới khốn nạn của chúng sinh, cho nên Bồ tát ước mong với ư chí sắt đá có thể đến bất cứ nơi nào để học hỏi, để giáo hóa.

9. Nguyện ba nghiệp không cùng tận: «Nguyện nương theo bánh xe không thối lui, thực hành Bồ tát hạnh, hành vi của thân, ngữ và ư đều không là những hành vi suông. Nếu chúng sinh nào chợt gặp tôi, mong cho quyết định Phật pháp, bất chợt nghe tiếng nói của tôi, liền được trí tuệ như thật, tịnh tín vừa sinh, tức th́ vĩnh viễn đoạn trừ phiền năo, được thân h́nh như gốc cây đại dược vương, được thân h́nh như như ư bảo, tu hành tất cả Bồ tát hạnh.» Đây là thệ nguyện nỗ lực thực hành cho kỳ được tất cả Bồ tát hạnh trong bất cứ trường hợp nào.

10. Nguyện thành Bồ-đề: «Nguyện, ở trong tất cả thế gian mà thành tựu giác ngộ tối thượng, không rời khỏi khoảng bằng đầu ngọn lông xíu mà thị hiện khắp tất cả mọi nơi, dù nhỏ bằng đầu lông xíu, sơ sanh, xuất gia, bước đến đạo tràng, thành chánh giác, chuyển Pháp luân, nhập Niết-bàn, chứng đắc cảnh giới Phật, năng lực đại trí tuệ, ở trong mỗi một niệm, tùy tâm của tất cả chúng sanh mà thị hiện thành Phật, khiến cho được tịch diệt, bằng một niệm chánh giác mà biết tất cả pháp giới tức Niết-bàn tướng; bằng một âm thanh mà thuyết pháp khiến hết thảy chúng sanh đều sanh tâm hoan hỉ, thị hiện nhập đại Niết-bàn mà không đoạn tuyệt Bồ tát hạnh; chỉ bày mặt đất đại trí tuệ; đặt vững tất cả pháp; bằng pháp trí thông, thần túc thông, huyễn thông, tự tại biến hóa sung măn tất cả pháp giới.»[12]

Đây là ước nguyện tối thượng và cùng đích của Bồ tát. Đến đây, chúng ta sẽ so sánh mười đại nguyện trên với ba đại nguyện của Thắng Man phu nhân

 

TIẾT 2: BA ĐẠI NGUYỆN

I. YẾU TÍNH BA ĐẠI NGUYỆN

Chương này cũng có tên, theo chữ Hán, là «Nhất thiết nguyện nhiếp đại nguyện.» Về cú pháp, như giải thích của Tuệ Viễn,[13] đây là đặt câu theo cách «ngoại quốc», tức theo văn pháp tiếng Phạn. Nếu đặt theo Hán văn phải nói như vầy: «Đại nguyện nhiếp nhất thiết nguyện» Nghĩa là, cái đại nguyện thâu tóm, bao quát tất cả nguyện. Nguyện được chia làm ba, nhưng căn bản chỉ có một. Căn bản đó là Chánh pháp, nói rơ hơn, đó là Chánh lư của Đại thừa. Chánh lư ấy được Phu nhân tŕnh bày một cách hệ thống suốt từ chương v đến chương xiii. 

Nguyện được chia làm ba phương diện, theo quan điểm của Bảo khốt[14] của Cát Tạng, ấy là tương đương với ba tụ tịnh giới của Bồ tát. Nghĩa là nguyện tương ứng với hành. Nguyện thứ nhất nói: đời đời thọ sinh đều được Chánh pháp trí, đó là nguyện tự hành, tương ứng với nhiếp luật nghi giới. Nguyện thứ hai nói: sau khi đă thành tựu Chánh pháp trí, bằng tâm không mệt mỏi, sẽ giảng thuyết cho tất cả chúng sanh, đây là nguyện ngoại hóa, tương ứng với nhiếp chúng sinh giới. Nguyện thứ ba nói: đối với sự nhiếp thọ Chánh pháp, sẽ xả bỏ thân mạng và tài sản để hộ tŕ Chánh pháp, đây là nguyện hộ pháp, thành tựu nhiếp thiện pháp giới.

 

II. NỘI DUNG BA ĐẠI NGUYỆN

l. Nguyện Chánh pháp trí : được định nghĩa theo Nghĩa kư[15] của Tuệ Viễn, đó là chứng như thật tuệ. Tức trí tuệ thấy rơ bản tánh của các pháp. Định nghĩa của Nghĩa sớ [16] của Thánh Đức, đó là thường trụ trí, tức trí tuệ bản hữu không bị chi phối bởi mọi sinh thành hay hoại diệt của hiện tượng giới. Nói một cách tổng quát, nguyện Chánh pháp trí ở đây là ước nguyện học hỏi tất cả Phật pháp. Tính cách hoằng đại vô biên của Phật pháp như được Hải Vân t́ kheo[17] mô tả cho Thiện Tài đồng tử. Chỉ trong một ư nghĩa, giữa vô biên ư nghĩa của một pháp môn, trong số vô lượng pháp môn, chỉ một câu ấy mà dùng số lượng mực nhiều bằng biển cả và với ngọn bút bằng ngọn núi chúa Tu-di, viết cho đến mực khô bút cùn mà vẫn không thể diễn tả thấu suốt hết. Bởi v́ chúng sinh giới vốn vô tận, thế gian tính vô tận, hư không giới vô tận, pháp giới vô tận, niết-bàn giới vô tận, Phật xuất hiện giới vô tận, Như Lai trí giới tâm sở duyên giới vô tận, cảnh giới sở nhập của Phật trí vô tận, giới tính vận chuyển thế gian, vận chuyển pháp, vận chuyển trí vô tận. Với mười tánh vô tận ấy,[18] Phật pháp cũng vô tận và do đó thệ nguyện cũng vô tận. 

Đối chiếu với mười nguyện đă nói ở trên, nguyện tự hành này của Thắng Man phu nhân bao hàm các nguyện như sau: (l) nguyện cúng dường, (6) nguyện biết thế giới, (9) nguyện ba nghiệp không cùng tận. Bởi v́ trên phương diện tự hành, sự thân cận cung kính cúng dường Phật là để xác lập vững chắc tín tâm đối với mục đích tối thượng và quyết định là phải thành tựu. Đó là tu tập bằng tín. Và lại nữa, bởi v́ thế gian tính cũng chính là giới tính của Phật pháp, cho nên ước nguyện hiểu biết thấu triệt tất cả thế giới tánh cũng chính là ước nguyện vào sâu trong biển Phật pháp. Đó là tu tập bằng trí. Mọi hành vi cử chỉ, trong mọi môi trường sinh hoạt, đều hướng tới một mục đích tối thượng duy nhất, đó là tu tập bằng hành động thực tiễn. Như vậy, tự hành đạt đến thành tựu trọn vẹn ba phương diện của một nhân cách: t́nh cảm, trí tuệ và ư chí. Tất cả sự thành tựu ấy cùng hướng đến một cứu cánh cao tột: thành Bồ-đề trong nguyện thứ mười. 

2. Nguyện thuyết trí: nếu Chánh pháp trí được hiểu chính xác là như thật trí, th́ nguyện thứ hai này hướng đến thành tựu phương tiện trí. Nó bao gồm các nguyện sau đây trong bảng kê mười nguyện: (3) nhiếp pháp thượng thủ, (4) tăng trưởng chúng sanh tâm hành, (5) giáo hóa chúng sanh, (6) đồng tâm hành. 

3. Nguyện hộ pháp: trong nguyên văn nói: «Đối với nhiếp thọ Chánh pháp, con sẽ xả bỏ thân mạng, tài sản để hộ tŕ Chánh pháp.» Bảo khốt[19] của Cát Tạng đưa ra giải thích cổ của các giảng sư đi trước và không đồng ư giải thích ấy. Theo giải thích ấy, không phải xả bỏ thân, mạng, tài sản để bố thí, mà là chứng thật trí, ĺa hư tướng, đạt được thanh tịnh Pháp thân, xả bỏ thân, mạng, tài sản thuộc vô thường giới. Giải thích này được nói là căn cứ vào kinh Niết bàn, theo đó, phá hoại tất cả kết sử phiền năo và các ma tính, sau đó mới xả bỏ thân mạng cho Niết-bàn. Nghĩa kư[20] của Tuệ Viễn theo lập trường giải thích này. Bảo khốt cho rằng căn cứ trên chính văn bản đây thực sự là nguyện hộ pháp; xả bỏ thân, mạng, tài sản để hoằng thông chính lư Đại thừa. Nguyện này gồm hai nguyện c̣n lại của mười nguyện: (2) thọ tŕ Chánh pháp, và (7) tịnh Phật quốc độ. Như đă thấy ở trên, thọ tŕ Chánh pháp tức là hộ tŕ Chánh pháp. Nhưng tịnh Phật quốc độ ở đây mà được liệt vào nguyện hộ pháp, đó là muốn nêu rơ tương quan giữa sự tồn tại và hiện hành của Chánh pháp với sự an lạc và lợi ích của thế gian. Hộ tŕ chánh pháp cũng chính là hộ tŕ thế gian.

 

(trích Chương IV, Phần Một, từ tác phẩm Thắng Man Giảng Luận

của Tuệ Sỹ)

 

 

 --------------------------

 

1) Pháp Tạng, Thám huyền, Đại 35, tr. 184c21.

2) Hoa nghiêm (Phật), «phẩm 34. Nhập pháp giới, Đại 9, tr. 676ff. Hoa nghiêm (Thật), «39 phẩm. Nhập pháp giới», Đại 10, tr. 319ff.

3) Hoa nghiêm (Phật), «7 phẩm. Tinh hạnh», Đại 9, tr. 430ff. Hoa nghiêm (Thật), «11 phẩm. Tịnh hạnh», Đại 10, tr. 1ff.

4) Hoa nghiêm (Phật), «31 phẩm. Phổ Hiền Bồ tát hạnh», Đại 9, tr. 607ff. Hoa nghiêm (Thật), «36 phẩm. Phổ Hiền hạnh», Đại 19, tr. 257ff.

5) Thông thường chỉ các Bồ tát địa thứ tám trở lên.

6) Bốn bộc lưu (Skt. catvāra oghā): Dục bộc lưu (kāmaugha), ḍng xoáy của dục vọng, hữu bộc lưu (bhavaugha), ḍng xoáy của tồn tại, kiến bộc lưu (dṛṣṭyogha), ḍng xoáy của kiến chấp, vô minh bộc lưu (avidyaugha), ḍng xoáy vô minh.

7) Gaṇḍa, tr. 3955: ea hi kulaputrā satpurua sattvānā catur oghottaratāyai mahādāna mahādharmanāva samudānetu-kāmo, dṛṣṭipakanimagnānā mahādharmasetu sthāpayitu- kāmo, mohāndhakāra-prāptānā jñānāloka kartukāma sasāra kāntārapranaṣṭānām ārya­mār­ga sadarśayitukāma. Cf. Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 429a 8.

8) Đại 30, tr. 543b17.

9) Hoa nghiêm (Phật), Đại 9, tr. 545b.ff. Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 181c.ff. Cf. Daśa, tr. 9ff.

10) Phân tích ư nghĩa tên gọi các nguyện, xem Pháp Tạng, Thám huyền, quyển 11, Đại 35, tr. 306ff. Tham chiếu, theo Nhiếp luận thích (Chân), quyển 10, Đại 31, tr. 225c8.

11) Đại 26, tr. 30b21.

12) Cf. Daśa, tr. 9.30ff:

1. mahāpūjopasthānāya…

2. budhotpāda- saddharmaparigāhāya,

3. yāvanmahāparinirvāopasakramaāya,

4. cittotpādābhinirhārāya…,

5. sarva­sattva­dhātu­pari­pāca­nāya…

6. lokadhātuvaimātryavatāraāya…,

7. sarvabuddhaketrapariśodha- nāya…,

8. ahāyānavataraāya…,

9. amoghasarvaceṣṭatāyai…,

10. abhi-sabodhi­mahā­jñānā­bhijñā­bhi­nirhārāya… Về giải thích 10 nguyện này, xem Thập trụ, tr. 30b10ff.

 

13) Thắng Man kinh nghĩa kư, Vạn 30, tr. 752b.

14) Đại 37, tr. 26a8.

15) Sđd., Vạn 30, tr. 573b.

16) Thánh Đức Thái tử, Thắng Man kinh nghĩa sớ, Đại 58, tr. 4c23. Cf. Tuệ Viễn, Thắng Man kinh nghĩa kư, Vạn 30, tr. 573b7.

17) Hoa nghiêm (Phật), Đại 9, tr. 690ff; Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 335aff; Hoa nghiêm (Bát), Đại 10, tr. 680c. Cf. Gaṇḍa, «5. Sāgaramegha, » tr. 51.ff.

18) Mười vô tận cú (daśa niṣṭhāpada), hay phạm trù vô hạn, xem Hoa nghiêm (Thật), Đại 10, tr. 182b11; Hoa nghiêm (Phật), Đại 9, tr. 546a. Cf. Daśa, tr. 115: daśabhir niṣṭhāpadau (…) yad uta sattvadhātuniṣṭhayā ca lokadhātuniṣṭhayā ca ākāśadhātuniṣṭhayā ca dharmadhātu-niṣṭhayā ca nirvāadhātuniṣṭhayā ca buddhotpādadhātuniṣṭhayā ca tathāgatajñānadhātu-niṣṭhayā ca cittālambanadhātuniṣṭhayā ca buddhaviayajñānapraveśadhātu-niṣṭhayā ca lokavartanīdharma­vartanījñānavartanī dhātuniṣṭhayā ca.

19) Đại 37, tr. 26c27.

20) Sđd., Vạn 30, tr. 573b11.

 

 

 


Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 06/07/11