Thư ṭa soạn số 81

 

(tháng 08.2018)

 

 

 

CHA MẸ DÂN

  

 

 

Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lư Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn c̣n rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rơ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ v́ gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)

Một lần khác, “Mùa hạ, tháng 4, vua ngự ở điện Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, vua chỉ vào công chúa, bảo ngục lại rằng: ‘Ta yêu con ta cũng như ḷng ta làm cha mẹ dân. Dân không hiểu biết mà mắc vào h́nh pháp, trẫm rất thương xót, từ nay về sau, không cứ ǵ tội nặng hay nhẹ đều nhất luật khoan giảm’." (1)

Ở nơi chốn an ổn, ấm cúng mà chợt chạnh ḷng nghĩ đến người đói rét trong ngục thất; cùng con gái chứng kiến việc xử kiện mà động ḷng thương tưởng tội nhân.

Cả hai trường hợp trên, được ghi vắn tắt trong Đại Việt Sử Kư Toàn Thư theo lối biên niên (2), đều liên quan đến tội nhân, tù nhân. Xem ra, sử chỉ ghi sự quan tâm của nhà vua đối với tội nhân, tù nhân; nhưng nên hiểu ḷng vua đối với dân cũng như thế. Nghĩa là vua cũng đặt ḷng thương của ḿnh đối với dân như cha mẹ đối với con cái, như quan niệm “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân) (3) được nói đến trong Kinh Thi (4).

Quan niệm vua/quan là cha mẹ của dân, ngay từ thời Mạnh Tử (372 – 289 trước Tây lịch), đă đổi khác, với chủ trương “dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh.” (5) Thực ra, triết học chính trị và lănh đạo Tây phương và Đông phương từ ngàn xưa đă xem dân là chủ nhân ông của đất nước; vua/quan là công bộc của dân (servant of the people). Lănh đạo có mặt để phục vụ quần chúng chứ không phải để được quần chúng phục vụ. Dù vậy, tư tưởng “dân chủ” nầy, trớ trêu thay, dường như chỉ mới được đón nhận về mặt lư thuyết (và khẩu hiệu) tại Việt Nam trễ tràng vào thế kỷ 19, 20. Thực tế cho thấy, quan chức thời nay, dưới chế độ độc đảng luôn miệng lên án sự bất minh và độc tài của các chế độ vua chúa thời xưa, đă công khai tự nhận ḿnh là “cha mẹ của dân,” theo cái nghĩa là có quyền đè đầu cưỡi cổ người dân, định đoạt mọi thứ cho đời sống của nhân dân. Người dân Việt Nam cho đến thời đại văn minh tân tiến ngày nay—thời đại mà các tiêu đề “tự do, dân chủ” luôn được rêu rao nhắc đến trên từng bảng hiệu và giấy tờ hành chánh—vẫn chưa từng được quư trọng, thương yêu bởi những người “công bộc” hay “đầy tớ.” Theo cách ấy, quan chức lănh đạo ngày nay làm cha mẹ th́ là cha mẹ vô tâm, thiếu trách nhiệm với con cái; c̣n làm đầy tớ th́ cũng là đầy tớ phản phúc, vô luân.

Làm thế nào mà một vị vua được cả nước tôn quư, đứng trên thiên hạ, ở nơi cung vàng điện ngọc mà vẫn xót thương, tưởng nghĩ đến tù nhân và dân đen? Có khi nào những người lănh đạo ngày nay dành một phút nh́n thẳng vào thực trạng thống khổ của nhân dân, thay v́ chỉ lo t́m cách trấn áp, bỏ tù người dân có ư kiến trái ngược với ḿnh? Có thể nào lănh đạo ngày nay dừng lại một phút, bớt nói bớt luận bàn, bớt t́m kế sách bảo vệ đảng phái và ngôi vị của ḿnh, để lắng nghe tiếng nói trung thực và tiếng kêu đau thương của người dân?

Vua Lư Thánh Tông sở dĩ có tiếng là vị vua nhân đức, thành công trong việc trị quốc an dân, là nhờ ḷng thương chân thành đối với con cái, cũng như đối với con dân (6). Ḷng thương không hề là điểm yếu của một chế độ, một chính thể. Ḷng thương không làm nhu nhược, yếu hèn đi dũng khí của trượng phu; ngược lại, có thể làm chất liệu hàn gắn những vụn vỡ, phân ly, tạo sức mạnh ḥa hợp, đoàn kết trong toàn dân. Bằng chứng là trong thời gian 18 năm tại vị, ông vua nhân từ Lư Thánh Tông đă đánh Tống, b́nh Chiêm, với những chiến công lẫy lừng khiến quân Tống không c̣n dám xâm lấn Đại Việt, và vua Chiêm phải đầu hàng, triều cống cả ba Châu (Địa Lư, Ma Linh và Bố Chính – ngày nay là một số các huyện thuộc tỉnh Quảng B́nh, Quảng Trị).

Chuyện người xưa làm, không khó: cha mẹ th́ phải ra cha mẹ, công bộc th́ phải ra công bộc. Thương dân như con đẻ th́ phải làm tất cả cho dân, v́ dân; chứ không phải chỉ thương nơi cửa miệng hay khẩu hiệu. Đối với gia đ́nh, cha mẹ ngoài trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, c̣n phải biết lắng nghe, nhận biết sở trường, sở đoản, cảm nghĩ, lư tưởng và quan niệm sống của con; và trên tất cả, phải thương yêu con. Không có thương yêu th́ cha mẹ không c̣n là cha mẹ.

Lănh đạo có lẽ không cần phải học đ̣i chiêu thuật chính trị nào để an dân, mà chỉ cần nuôi lớn và biểu hiện ḷng thương của cha mẹ, thành thực hướng về muôn dân. Cha mẹ sinh dưỡng con cái không phải để được con cái phụng sự, mà chính là để yêu thương, chăm sóc bằng cả ḷng thương và trách nhiệm trọn đời của ḿnh. Không thể làm cha mẹ của dân được th́ hăy cúi ḿnh làm công bộc, làm con cháu, tận tụy phụng dưỡng nhân dân như chính cha mẹ của ḿnh.

Ư tưởng nầy không có ǵ mới; nhưng cũng chẳng bao giờ lỗi thời trong việc hộ quốc an dân, nhất là trong giai đoạn cùng khốn nguy vong của đất nước.

 

 

 

________

 

(1) Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, Bản Kỷ Toàn Thư, Quyển 3.

(2) Ghi chép sơ lược các sự kiện hay biến cố xảy ra từng năm, gom thành biên niên sử từng thập kỷ, thế kỷ, thiên kỷ.

(3) Quan niệm của Nho gia ngày xưa, xem vua là cha mẹ của dân; các quan chức lớn nhỏ cũng theo đó mà tự đặt ḿnh vào ngôi bậc cha mẹ để chăm sóc, cai trị dân như cha mẹ chăm nom con cái. “Kinh Thi nói: "Vui thay người quân tử,  là cha mẹ của dân." Điều ǵ dân thích,  th́ ḿnh thích,  điều ǵ dân ghét,  th́ ḿnh ghét. Như vậy th́ gọi là cha mẹ dân.” (Thi. Tiểu nhă. Nam Sơn hữu đài, chương 2, câu 3-4).” Trích lại từ Đại Học, phần B́nh Thiên Hạ, do Tăng Tử (tức Tăng Sâm, 505 - 435 trước Tây lịch) truyền lại.

(4) Kinh Thi là một trong Ngũ Kinh, 5 kinh điển nền tảng cho học thuyết Nho giáo (gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu), tương truyền là do Khổng Tử biên soạn.

(5) Dân là quư nhất, thứ đến là xă tắc, sau cùng mới là vua. Mạnh Tử (372 – 289 trước Tây lịch) được xem là người kế thừa học thuyết của Khổng Tử (551 – 479 trước Tây lịch).

(6) Hăy đọc thêm nhận xét của sử gia Ngô Sĩ Liên viết về vua Lư Thánh Tông: “Xót thương v́ h́nh ngục, nhân từ với nhân dân, là việc đầu tiên của vương chính. Thánh Tông lo tù nhân trong ngục hoặc có kẻ vô tội mà chết v́ đói rét, cấp cho chiếu chăn ăn uống để nuôi sống, lo quan lại giữ việc h́nh ngục hoặc có kẻ v́ nhà nghèo mà nhận tiền đút lót, cấp thêm cho tiền bổng và thức ăn để nhà được giàu đủ. Lo dân thiếu ăn th́ xuống chiếu khuyến nông, gặp năm đại hạn th́ ban lệnh chẩn cấp người nghèo, trước sau một ḷng, đều là thành thực. Huống chi lại tôn sùng đạo học, định rơ chế độ, văn sự thi hành mau chóng bên trong; phía nam b́nh Chiêm; phía bắc đánh Tống, uy vũ biểu dương hiển hách bên ngoài.” (Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, Quyển 3)

 

 

 

 

 


Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 07/31/18